Nhân Quả Ứng Nghiệm Trong Đời Tôi

 

Nguyễn Minh Đào

                                                         

 

 Trong đời sống tâm linh, dân ta xưa nay rất coi trọng luật nhân quả, biểu hiện qua những câu tục ngữ, phương ngôn như:

 

- Đời xưa quả báo còn chầy, đời nay quả báo thấy ngay nhãn tiền.

- Sinh sự sự sinh. 

- Ác giả ác báo, thiện giả thiện lai. 

- Gieo gió gặt bão. 

- Ở hiền gặp lành. 

- Trời cao có mắt. 

- …

 

Tôi sinh ra và được nuôi dạy trong gia đình ảnh hưởng Nho giáo. Ông bà, cha mẹ chăm chút dạy dổ tôi từ thưở còn thơ làm người phải biết nhân nghĩa, coi trọng danh dự, nhân phẫm, làm lành lánh dử, yêu thương đồng loại, quí trọng cỏ cây, sông nước... Và, truyền thụ trong tôi luật nhân quả qua hai từ “tội – phước” đơn giản trong hành xử đối nhân xử thế; Cùng sự giáo hóa của bậc tiền nhân trên con đường đấu tranh cách mạng tôi dấn thân từ tuổi thiếu niên, biết phân biệt ta – bạn – thù; biết chọn đường ngay nẽo chánh vì Tổ quốc, vì Dân tộc.

 

Trãi qua bao cuộc biến thiên thời cuộc, những điều trên tôi xem như lẽ sống, như kim chỉ nam hành động trên con đường đời tôi đã chọn. Ngày xưa tôi chưa biết nhân quả là gì, nhưng có lẽ nhờ tôi luôn gieo “nhân lành” nên cuộc đời cho tôi “quả ngọt”, sống sót qua cuộc chiến khốc liệt với Mỹ và luôn gặp điều lành trong cuộc sống thời bình. Ngày nay, đoạn cuối cuộc đời tôi sống yên vui, hạnh phúc cùng gia đình và trong tình cảm quí mến của bạn bè, của bà con thân thuộc. Nay đã ngoài tuổi 85 tôi vẫn khỏe mạnh, minh mẫn. Tôi cảm nhận cuộc đời này rất đáng sống, cố gắng làm những gì có thể, góp phần bé nhỏ của mình cùng cộng đồng vun quén ngày thêm tươi đẹp.

 

Quê tôi vùng bán sơn địa Bảy Núi, trước mặt là đất nước Chùa Tháp – Campuchia, sau lưng dựa vào các ngọn núi có những cái tên rất hình tượng: Kỳ Lân Sơn (núi Trà Sư), Ô Thước Sơn (núi Két), Ngũ Hồ Sơn (núi Dài Nhỏ) nằm trong dãy Thất Sơn huyền thoại. Khi xưa, tôi thường nghe ông bà Ngoại kể: Thuở ông bà về đây lập nghiệp, vùng này rừng núi hoang sơ, cọp beo, chó  sói, heo rừng… rất nhiều, ban đêm không ai dám ra đường. Cha mẹ tôi có tám người con, tôi là con trai đầu sau hai chị gái. Nhà tôi đối diện nhà Ngoại cách khoảng sân rộng. Trước chiến tranh gia đình tôi thuộc từng lớp trung lưu, Ba tôi là thương buôn hàng chuyến và khai mở đất hoang làm ruộng hàng chục mẫu ở Bàu Cò trên biên giới đất Campuchia với đàn bò hàng chục con, trong nhà có kẻ ăn người ở. Tôi được cha mẹ rất mực thương yêu cưng chiều. Đến tuổi đi học, cha mẹ tôi rước thầy giáo về nhà dạy vở lòng, đến 7 – 8 tuổi mới cho đến trường có kẻ đưa người đón.

 

Năm 1944, chiến tranh thế giới lần thứ hai bùng nổ, phát xít Nhật vào chiếm đóng nước ta. Tôi nghe người lớn nói với nhau nhiều chuyện “quốc sự”; trong đó có những chuyện nói về cộng sản, về lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc… Tôi nghe loáng thoáng xem chừng rất bí hiểm! Mấy năm này mùa nước lớn mất mùa, ba tôi bán bầy bò nghỉ làm ruộng, vẫn đi buôn hàng chuyến. Có lần trong chuyến chở trâu bò bán ở Bằng Tăng, Ô Môn (Cần Thơ), khi về đi tàu khách Ba tôi đánh bạc thua sạch chuyến buôn, Má tôi biết chuyện rất buồn âm thầm chịu đựng, không nói nặng Ba tôi lời nào! Cuộc sống gia đình tôi bắt đầu sa sút! Ba tôi mượn xe bò dọn hết đồ đạt trong nhà về ở xóm Cây Mít trên bờ Bắc kênh Vĩnh Tế, cất nhà ở cùng xóm bà con bên Nội tôi. Ba tôi mua da bò tươi muối bán cho thương lái, việc làm ăn xem chừng khá phát đạt, về sau không rõ vì sao Ba tôi không làm nữa, đêm nọ lại bị kẻ trộm đào ngách đột nhập vào nhà lấy cắp bộ lư đồng trên bàn thờ và một số quần áo…

 

Những năm tháng gia đình tôi sống ở đây, tuy mức sống không sung túc như trước, nhưng vẫn khá hơn nhiều gia đình trong xóm. Ba tôi do việc làm ăn xưa nay giao thiệp khá rộng trong giới trung lưu và viên chức chánh quyền thuộc địa. Ở xóm Cây Mít, kiến họ Nguyễn anh em Ba tôi từ lâu luôn được thiên hạn nể trọng.

 

Đã 8 - 9 tuổi, tôi vẫn là đứa trẻ nhút nhát, chơi với lũ trẻ trong xóm bao giờ tôi cũng nhường nhịn, chịu thua thiệt! Ngày nghỉ học tôi thường về thăm ông bà Ngoại. Chính tình yêu thương, sự dạy dổ của ông bà và các cậu dành cho tôi, giúp tôi sớm giác ngộ cách mạng thoát ly gia đình tham gia kháng chiến chống Pháp năm 1947 khi tôi mới 11 tuổi.

 

Năm 1954, sau chiến thắng Điện Biên Phủ, Hiệp định Giơ-neo-vơ được ký kết, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân ta kéo dài 9 năm kết thúc, miền Bắc được giải phóng, nhưng miền Nam lại phải chuẩn bị bước vào cuộc chiến đấu mới. Khi ấy tôi công tác ở Ty Thông tin Long Châu Hà, những tháng ngày này hơn 65 năm trước đồng bào, cán bộ, chiến sĩ tỉnh Long Châu Hà sống trong tâm trạng vui buồn lẫn lộn: Vui vì hòa bình lập lại chấm dứt chiến tranh máu lữa! Nhưng niềm vui đó sớm chùng xuống! Nỗi buồn và sự lo âu trĩu nặng trong lòng trước viễn cảnh phân ly: Kẻ chuẩn bị xuống tàu tập kết ra Bắc chưa biết bao giờ gặp lại người thân! Người ở lại miền Nam tiếp tục cuộc đấu tranh cách mạng sống mái với kẻ thù mới, không ai có thể lường trước điều gì sẽ xãy ra! Tôi được lệnh đi tập kết ra Bắc, ở khu tập kết Cà Mau gần hai tháng tôi và một số người được lệnh ở lại. Tôi rất buồn, nhưng với tinh thần “đi vinh quang, ở lại cũng vinh quang” phải chấp nhận mọi quyết định của tổ chức. Tôi dự lớp tập huấn cấp tốc một tuần lể về tình hình nhiệm vụ cách mạng; phương châm, phương thức hoạt động công khai họp pháp trong lòng chế độ Sài Gòn. Sau đó trở về quê nhà.

 

Những năm 1954 – 1956 các tỉnh miền Tây Nam bộ giáo phái Hòa Hảo, Cao Đài cát cứ tồn tại song song chánh quyền Sài Gòn. Bao năm tham gia kháng chiến trở về quê nhà, gia đình nghèo khó, tôi không có việc gì để làm. Nhờ các mối quan hệ thân quen với viên chức chánh quyền Sài Gòn làng xã, Ba tôi tranh thủ họ giúp làm thẻ căn cước tạo thế hợp pháp cho tôi. Ba tôi còn tranh thủ ban trị sự giáo hội Phật giáo Hòa Hảo xã mở trường cho tôi dạy học những lớp dưới bậc tiểu học, vừa củng cố vỏ bọc hợp pháp, vừa có tiền lương giúp gia đình thoát cảnh chạy ăn từng bữa. Nhưng không bao lâu chánh quyền Sài Gòn đánh đổ các giáo phái, tôi tiếp tục dạy tư ít lâu rồi cũng nghỉ. Tôi bắt đầu tham gia công tác bí mật do chi bộ xã Nhơn Hưng lãnh đạo cùng các ông cậu tôi.

 

Tháng 12 năm 1957, tôi trúng tuyển chế độ “quân dịch” đầu tiên của chánh quyền Sài Gòn, bí thư Ban cán sự Đảng quận Võ Văn Nhứt kết nạp tôi vào Đảng Lao Động Việt Nam, quyết định tôi công tác nội tuyến trong quân đội Sài Gòn. Đầu năm 1962 tôi đào ngũ quân đội Sài Gòn và bỏ nhiệm vụ công tác nội tuyến, về trình diện bí thư Huyện ủy Tịnh Biên (trước là Ban cán sự) chịu án kỷ luật cảnh cáo, vì “tội” bỏ nhiệm vụ công tác nội tuyến. Tôi được phân công làm trưởng tổ Quân báo huyện. Từ đó, tôi dấn thân vào cuộc kháng chiến chống Mỹ đầy hy sinh gian khổ.                                                  

 

Quảng đời kháng chiến của tôi cùng đồng bào, đồng chí vượt qua mưa bom bảo đạn sống sót trở về, tôi nhớ có hai lần thoát chết trong gang tấc:

 

 Một lần năm 1962 khi tôi công tác Quân báo huyện Tịnh Biên, cùng một anh bạn phụ trách công tác binh vận. Núi Phú Cường xã An Nông là hậu cứ của bọn tôi “bỏ vòi” ra núi Cậu móc nối cơ sở trong thị trấn Tịnh Biên hoạt động. Khi ấy địch “xúc tát” hết dân ra “ấp chiến lược” Tà Bét. Đêm ấy anh em tôi lười biếng ngủ bạ dưới chân núi, thay vì lên sườn núi ngủ như mọi khi. Khi trời sáng trắng bọn tôi thức dậy nghe tiếng người la hét ngoài đồng, tôi nói với anh bạn: “Dường như có tiếng lính”. Anh bạn gạt ngang: “Tiếng dân lùa bò đó”, tôi tin lời không nói gì, cùng nhau xếp chăn mùng vào ba lô để tại chổ ung dung xuống xóm. Tôi đi trước, đến đầu sân nhà hoang của anh Mười Chi là cán bộ xã, tôi thấy hai tên lính, một tên quay lưng, một tên nhìn ngang nên không thấy tôi, trong tích tắc tôi quay lưng chạy trở lên núi cùng với anh bạn, địch phát hiện đuổi theo bắn loạn xạ. Bọn tôi chạy một mạch lên núi mệt muốn đứt hơi, chút nữa toi mạng trã giá cho sự chủ quan, khinh suất.                                                      

 

Năm 1963 Huyện ủy Tịnh Biên quyết định tôi làm chánh văn phòng Huyện ủy. Tôi đi kháng chiến lúc 11 tuổi, học hành dang dở, nhờ trời cho tôi có khiếu “cạo giấy”, nên trong cuộc đời làm cách mạng của tôi có nhiều năm làm công tác văn phòng. Công việc văn phòng cấp ủy huyện thời chiến không nhiều, tôi làm luôn cả văn thư, đánh máy và những công việc khác như công tác đảng vụ, thông tin thời sự, tài vụ…

 

Ngày 31 tháng 7 năm 1964, sau khi được gia đình đôi bên và Ban thường vụ Huyện ủy chấp nhận, tôi làm lể thành hôn với cô gái công tác trong cơ quan với tôi, cùng tôi chung sống đến ngày “răng long tóc bạc” hôm nay. Cuộc hôn nhân thời chiến của chúng tôi kể ra khá lãng mạn, đông đầy kỷ niệm! Lể tuyên hôn được tổ chức nhân bế mạc hội nghị cán bộ Huyện ủy Tịnh Biên do ông Mạnh Hà bí thư chi bộ làm chủ lể. Sau bữa cơm thân mật buổi chiều, mọi người quây quần trong hội trường, có trang trí bàn thờ Tổ quốc, cô dâu chú rể “đứng hầu” hai bên nghe ông chủ lể “thuyết giáo”, sau cùng tôi hứa hẹn…Nghi lể vừa xong chốt lát, bổng nghe tiếng pháo từ trận địa pháo Ba chúc “đề pa”, đạn rít qua đầu nổ ầm ầm chung quanh. Mọi người nhanh chóng chạy tản ra. Hầm trú ẩn không đủ, nhường cho người già, phụ nử, trẻ em, tôi và các bạn trẻ nằm phơi trên mặt đất. Địch bắn hàng chục quả pháo, có mấy quả nổ rất gần, mãnh đạn văng sát chổ tôi nằm, tiện đứt cành cây gãy đổ trước mặt, rất may không có quả nào rơi trúng nơi hành lể.

 

Trận bắn pháo không bình thường, Ban An ninh huyện đánh dấu hỏi…? Bằng biện pháp nghiệp vụ, các đồng chí phát hiện một tên gián điệp nữ ở xóm Ô Cạn bắt điều tra thị khai, thấy anh em ta mượn nồi niêu, chén bát nhiều chuẩn bị lể cưới của tôi, báo với đồn Phổ Đà Ba Chúc: “Việt cộng đang hội họp, ăn uống đông người…” và chỉ điểm chúng bắn pháo. Tên gián điệp đền tội làm tay sai cho địch! Về sau những lúc trà dư tửu hậu, thỉnh thoảng tôi kể chuyện đám cưới của vợ chồng tôi và nói vui: “Đám cưới của vợ chồng tôi rất trọng thể, có bắn đại bác chào mừng!” 

 

Giữa năm 1968 Sư đoàn 1 bộ binh – chủ lực Miền do Đại tá Trần Văn Trân làm Sư đoàn trưởng, được Miền điều động về đứng chân chiến trường Bảy Núi, xây dựng đầu cầu mở hành lang chuyển Sư đoàn về miền Tây.

 

Việc đưa một đơn vị lớn hàng ngàn quân từ biên giới Campuchia qua kinh Vĩnh Tế về đứng chân trên vùng căn cứ nhỏ hẹp Bảy Núi vô cùng khó khăn. Lúc đầu ta còn giử được yếu tố bí mật bất ngờ đánh thắng một số trận ở Vĩnh Trung, Ba Xoài, Xoài Chết… Nhưng khi địch phát hiện bộ đội chủ lực ta, chúng huy động hàng vạn quân, cùng các loại binh khí kỷ thuật hiện đại vây đánh quyết liệt hai ngọn đồi Ô Tà Sóc và Tức Dụp; nhất là đồi Ô Tà Sóc - nơi đóng quân chủ yếu của Sư đoàn, gây cho ta nhiều khó khăn, tổn thất…!

 

Năm 1970, tôi là trung úy trợ lý tuyên huấn Ban chánh trị Tỉnh đội, được cử đi cùng Ban chỉ huy Tiền phương Tỉnh đội do anh Bảy Phong tỉnh đội phó phụ trách vừa thành lập về Bảy Núi lãnh đạo, chỉ huy các đơn vị bộ đội địa phương tỉnh có mặt như Đại đội 381 đặc công, Đại đội 385 trợ chiến và Tiểu đoàn A.12 (Quân khu 8 biệt phái) hoạt động độc lập hoặc phối hợp với bộ đội chủ lực. Lúc nầy địch đánh phá phong tỏa biên giới trên tuyến kinh Vĩnh Tế rất quyết liệt, chúng tôi hành quân từ căn cứ B3 – Vạt Lài, huyện An Phú tới núi Som (Campuchia) tiếp giáp biên giới huyện Tịnh Biên, mất gần hai tháng chúng tôi mới dùi qua được kinh Vĩnh Tế về núi Dài – xã Ba Chúc. Lúc đầu trú đóng Ô Vàng – xã Lê Trì, sau về bám trụ đồi Ô Tà Sóc – núi Dài xã Lương Phi.

 

Đặt chơn lên đồi Ô Tà Sóc, nhìn ngọn đồi bị bom cày đạn xới trơ trụi tôi ngỡ ngàng! Nhớ năm 1962 tôi công tác huyện Tịnh Biên, được cử đi học trường chánh trị Trần Phú của tỉnh trú đóng cùng cơ quan Tỉnh ủy, Tỉnh đội nơi đây. Hồi ấy, ngọn đồi này hoang sơ, rất nhiều cây cổ thụ hai ba người ôm, tàng cây liền nhau che ánh nắng mặt trời không xuyên tới đất, không khí ẩm ướt, lạnh lẽo, rắn rết, cọp beo… rất nhiều! Vậy mà nay bom đạn địch tàn phá sạch ngọn đồi, chỉ còn hang đá – dân bản địa gọi là lò ảng lồ lộ giữa trời, không còn một gốc cây xanh! Ban đêm tôi đi công tác về, xa xa nhìn ngọn đồi âm u, đó đây những cây cổ thụ bị bom đạn chặt đứt chết khô, các trận bom trong ngày đốt cháy như ngọn đuốc bập bùng!

 

Các bộ phận trong Ban chỉ huy tiền phương ăn ở trong một dãy lò ảng liền nhau, chung quanh có các đơn vị bộ đội chủ lực Miền trú đóng. Các điểm cao trước mặt và sau lưng địch đóng chốt, không chế ta dưới tầm hỏa lực và chỉ điểm phi pháo oanh kích bất cứ lúc nào khi phát hiện bóng người, hay khói lửa trong khu vực quân ta trú đóng. Tôi không hiểu vì sao nhiều tháng qua quân ta không bung ra đánh địch trận nào, mặc cho chúng mưa làm gió, không ngày nào địch không dội bom pháo xuống ngọn đồi năm lần bảy lượt. Với lò ảng tầng tầng hiểm trở, bom pháo thông thường và bộ binh địch không làm gì được quân ta. Bọn chỉ huy địch hiểu được điều đó, chúng nghiên cứu cách đánh và sử dụng những loại vũ khí có khả năng sát thương quân ta dưới các tầng lò ảng. Đòn đánh ác hiểm nhất là vài ba ngày địch dùng trực thăng cần cẩu treo dưới bụng bọc trong tấm lưới hàng chục phuy xăng, khi bay đến mục tiêu thã một đầu lưới, phuy xăng rơi xuống đá bể, một trực thăng vũ trang chúng tôi gọi “cá lẹp” bay phía sau phóng pháo, xăng chảy tới đâu lửa cháy đến đó. Trong vài ba phi vụ như vậy, có một phi vụ trực thăng cần cẩu mang loại hóa chất gì đó, có người nói xăng bột (?) khi “cá lẹp” phóng pháo không gây cháy, mà tạo sức ép không khí rất mạnh, nếu bị đánh trúng sức ép làm chết người, người chết quần áo bị xé nát, mắt và lưỡi lòi ra ngoài, nếu ở xa một vài trăm mét tức ngực khó thở, tôi và anh em đã đôi lần nếm mùi! Trước khi chúng tôi đến đồi Ô Tà Sóc không lâu, nghe nói có một phi vụ địch đánh trúng bệnh xá quân y trung đoàn thuộc Sư đoàn, trong chốt lát hàng chục thương binh và cán bộ, chiến sĩ thương vong! Thứ hai là loại hỏa tiển không đối đất phóng từ trên máy bay có sức công phá lớn, có thể bể tảng đá đường kính năm, bảy mét. Theo anh em kể, trước khi tôi về đây vài tháng, tổ tiền tiêu bộ đội chủ lực chốt chặn trên đồi Ma Thiên Lãnh (trong quần thể đồi Ô Tà Sóc) phòng ngự trong hang đá, bị hỏa tiển phóng trúng bể đá lấp cửa hang, nhốt các chiến sĩ còn sống trong hang kêu cứu: “Cứu chúng tôi các đồng chí ơi…!”. Dù hết sức cố gắng cũng không mở được cửa hang cứu anh em, đành dùng ống tre đưa thức ăn, nước uống vào hang cho anh em, vài hôm tiếng kêu cứu tắt lịm dần… Tất cả hy sinh! Mãi những năm sau nầy ta mới phá cửa hang đưa hài cốt các liệt sĩ về nghĩa trang!

 

Địch còn có cách đánh khuấy rối như giữa đêm khuya dùng máy bay vận tãi bay trên tầng mây, bất ngờ “cắt” một quả bom cở lớn xuống căn cứ ta, chúng tôi gọi là “bom trộm”. Hay hàng đêm vào chập tối, hoặc giữa khuya chúng dập vài chục quả pháo ở đoạn đường mòn độc đạo quân ta đi lại hàng ngày qua Bụng Ông Địa xuống Ô Tà Miệt – xã Lương Phi. Các loại vũ khí gây sát thương lớn địch thi thố với ta không thiếu thứ gì, trừ bom nguyên tử. Máy bay B.52 những năm trước địch có sử dụng, về sau địch đóng chốt các điểm cao, ta và địch ở trong thế cày răng lược địch không sử dụng. Chất độc dioxin làm rụng lá cây tôi chưa thấy địch sử dụng ở đây, vì không còn cây xanh. Chỉ có chất độc CS làm cay mắt, thỉnh thoảng địch dùng trực thăng cần cẩu ném xuống một phi vụ cả chục thùng như thùng nhựa đường rơi xuống đá bể, chất độc CS bột màu trắng ngà bám trên mặt đá, gió bay trong không khí làm cay mắt không chịu nổi… ! Còn phải kể đến loại vũ khí nhỏ không kém phần nguy hiểm như “bom lá”, giống chiếc lá cây rừng rụng trên mặt đất, nếu giẫm phải nổ đứt bàn chân. Hay như “bom bươm bướm” – theo cách gọi của quân ta, từ trong trái bom mẹ trên máy bay ném xuống lưng chừng, nổ văng ra rất nhiều trái, khi chạm đất hoặc vướng cây bung ra bốn sợi dây cước căng bốn góc, ta đi vướng nổ sát thương. Có người nói tôi mới để ý quả lựu đạn “cá nóc” hình tròn, địch nghiên cứu đánh ta trong hang đá, dể dàng lăn xuống tới đáy hang mới nổ.

 

Địch đánh phá day dẳng ác liệt nhằm tiêu hao sinh lực quân ta, tôi nghe thấy không ngày nào quân ta không thương vong vì bom đạn địch, vì bị phục kích khi đột nhập “ấp chiến lược” mua gạo, vì đi qua kênh Vĩnh Tế về hậu cứ, hay chết vì bệnh sốt rét ác tính…! Địch kết họp chiến tranh tâm lý, thường xuyên dùng máy bay rãi truyền đơn trắng trời đi nơi nào cũng gặp, lớp cũ mục, lớp mới chồng lên và phát loa “chiêu hồi” từ trên máy bay, cả ngày bay trên tầng mây tiếng động cơ và tiếng phát loa nghe văng vẳng khi xa khi gần lập đi lập lại một câu “hoặc tử thần, hoặc chiêu hồi” gây cảm giác nhàm chán, buồn ngủ…!                

 

Địch dùng bom đạn đánh phá trực diện, kết họp chiến tranh tâm lý và phong tỏa nguồn tiếp tế của quân ta. Trên kinh Vĩnh Tế thâu đêm suốt sáng chúng rãi bộ binh, kết họp giang thuyền phục kích từng cụm dày đặc. Từng tốp trực thăng vũ trang bay theo đội hình dọc kinh thả trái sáng, rọi đèn pha rà đi quét lại, soi mói từng lùm cây bụi cỏ, khi phát hiện quân ta, hay có dấu hiệu nghi ngờ chúng bắn như đổ đạn và gọi “pháo bầy” bắn cấp tập! Việc qua lại kinh Vĩnh Tế của quân ta ngày càng khốc liệt, nhiều chuyến phải mất một hai tháng mới qua được, anh em ta gọi kinh Vĩnh Tế là “kinh Vĩnh Biệt”! Tôi nghe nói lại, anh Ba Trân Sư đoàn trưởng bị địch bắt khi lọt ổ phục kích trên tuyến kinh nầy, tiểu đội bảo vệ anh hy sinh, anh y tá đeo túi cứu thương hy sinh bên cạnh, anh nhanh trí lấy túi cứu thương quàng vào cổ anh, địch bắt điều tra anh khai làm y tá, nhờ có chút hiểu biết thuốc men và băng bó vết thương anh qua mắt được địch, chúng điều tra không phát hiện ra anh, ở tù mấy năm anh được trao trả sau Hiệp định Pa-ri năm 1973 ở sông Thạch Hãn – Quảng Trị.

 

Con đường tiếp tế từ hậu cứ của quân ta trên đất Campuchia qua kinh Vĩnh Tế địch phong tỏa gần như bị cắt đứt, nguồn tiếp tế tại chổ do bị địch gom dân ra “ấp chiến lược” và cấm dân vào vùng căn cứ ta, ban đêm bố trí quân địa phương phục kích quanh các “ấp chiến lược”, nên đột nhập vào ấp mua gạo và nhu yếu phẩm thường trả giá bằng máu! Một lần, đội Trinh sát quân báo tỉnh cùng một số đồng chí thuộc Ban chỉ huy tiền phương Tỉnh đội hơn mười người, đột nhập vào ấp Thanh Lương – núi Tượng xã Ba Chúc mua gạo, lọt ổ phục kích chỉ còn vài đồng chí sống sót trở về…!

 

Tình thế hết sức gay go! Cán bộ, chiến sĩ Sư đoàn 1 ăn đói, mặc rách, thiếu thốn mọi thứ… ! Tôi đi công tác ban đêm thường gặp từng tốp năm bảy anh em đi tìm cái ăn. Mùa lúa chín thấy anh em ra đồng tướt từng bông lúa đem về lấy nón sắt giã nấu cháo, hoặc đào trộm khoai của dân rồi viết giấy để lại xin lổi. Chuyện này tôi nghe chú Tư Ngự - một lảo nông du kích nhà ở Ô Cạn kể lại, với thái độ rất thương cãm quân ta! Chú còn nói khi thu hoạch khoai làm như vô ý bỏ sót lại rất nhiều, để tối anh em đến lấy ăn!

 

Sư đoàn 1 là đơn vị chủ lực thiện chiến của Miền từng có mặt trên các chiến trường từ nam Trung bộ, Tây Nguyên và miền Đông Nam Bộ. Tôi nghe anh em nói không có chiến trường nào gian khổ, ác liệt bằng Bảy Núi – An Giang! Sau này qua lời kể của cựu chiến binh Sư đoàn cho biết, thời gian Sư đoàn ở chiến trường Bảy Núi thương vong khoảng 2 ngàn cán bộ chiến sĩ!

 

Gần giữa năm 1971 Sư đoàn 1 chuyển hết về miền Tây, các đơn vị bộ đội tỉnh cùng bộ đội địa phương và du kích hai huyện Tri Tôn, Tịnh Biên đãm nhận nhiệm vụ giử đất vùng Bảy Núi. Đồi Ô Tà Sóc có Đại đội 385 do đồng chí Trần Nhất Quyết làm đại đội trưởng, đồng chí Lê Thành Khởi làm chánh trị viên (sau này là chỉ huy trưởng Bộ chỉ huy Quân sự tỉnh), bố trí đóng chốt đối diện điểm cao địch làm “lá chắn” bảo vệ khu vực trú đóng Ban chỉ huy tiền phương, lúc này do anh Ba Liêm tỉnh đội phó phụ trách. Suốt ngày đêm liên tục, địch trên điểm cao dội hỏa lực xuống chốt đại đội và khu vực sườn đồi phía dưới, nơi Ban chỉ huy tiền phương trú đóng. Tiếng súng cối, súng M.79, tiếng lựu đạn và từng tràng đại liên, trung liên… không giờ phút nào dứt. Thỉnh thoảng địch cho quân đánh nống xuống thăm dò, đụng quân ta vổ mặt tháo chạy. Cán bộ, chiến sĩ đại đội trên chốt sống, chiến đấu căng thẳng, mỏi mệt ngày đêm!

 

Trong một trận đánh địch phản kích, Đại đội 385 dũng cảm chiến đấu gây cho địch một số thương vong, đơn vị có mấy đồng chí bị thương, trong đó có hai bị thương nặng cần chuyển về đội phẩu quân y nhưng đơn vị thiếu người, tôi và hai cảnh vệ hỗ trợ tãi một cáng thương, đồng chí Quyết đại đội trưởng cùng hai chiến sĩ tãi một cáng thương. Khi tôi và hai cảnh vệ soi đèn pin lần theo đường dây điện thoại luồng trong lò ảng đi ngược lên chốt, bước vào hang để chiến thương trời tối đen như mực, địch trên điểm cao cách ta trong tầm lựu đạn, đồng chí bị thương sọ não mê sảng kêu la, vẫy vùng, y tá chích thuốc an thần mới đưa đi được. Đồng chí Quyết nói với tôi, để cán thương sọ não đồng chí khiêng đi trước. Tôi giúp hai cảnh vệ khiêng cán thương còn lại đi sau, khi ra khỏi cửa hang chật hẹp, trời tối đen không nhìn thấy cán thương đồng chí Quyết đâu! Tôi nhắm hướng dẫn cán thương đi xuống lòng ô, có con đường mòn đến đội Phẩu quân y. Trên đường đi, địch trên cao điểm phía sau vẫn liên tục bắn xuống từng tràng đại liên, trung liên, tiếng súng cối, súng M.79… nổ chát chúa chung quanh, ánh lửa chớp nhoáng liên tục. Bổng một trái cối 81 ly nổ trước mặt tôi, đi vài bước tôi sụp xuống bậc đá, dẫm lên vật gì đó mềm nhũn, nong nóng dưới bàn chơn, mùi máu tươi hắt lên mũi, tôi chưa biết chuyện gì xảy ra?! Đang đi võng bị rách, tôi cho anh em cõng chiến thương tìm hốc đá gần đó ẩn núp, cử một cảnh vệ về điểm ở lấy võng khác thay. Đưa chiến thương về đến đội Phẩu tôi mới biết đồng chí Quyết hy sinh, chỉ một mình ôm trọn quả đạn cối 81 ly cách tôi vài bước chân, chiến thương sọ não cũng hy sinh!

 

Thấy Đại đội 385 không thể chốt giử lâu dài, anh Ba Liêm lệnh đưa đại đội về phía sau. Các cơ quan, đơn vị phải cơ động, phân tán bí mật bám trụ, ăn ở theo phương châm “Đi không dấu, nấu không khói, nói không tiếng”, không để địch phát hiện bảo toàn lực lượng.

 

Sau khi bộ đội chủ lực rút đi, kinh Vĩnh Tế địch không phong tõa quyết liệt, nhưng việc đột nhập “ấp chiến lược” mua gạo vẫn nguy hiểm. Ban chỉ huy tiền phương tiếp tục bám trụ đồi Ô Tà Sóc, có khi di chuyển xuống Lương Phi, Ô Cạn, Ô Vàng – Ba Chúc và phải tự bảo vệ như các đơn vị khác. Anh Ba Liêm đãm nhận nhiệm vụ vài tháng, thì anh Tám Khá tỉnh đội phó thay. Anh vừa đến mấy hôm, được tin địch tập trung quân chuẩn bị càn lớn đồi Ô Tà Sóc. Anh Tám Khá lệnh các bộ phận thuộc Ban chỉ huy tiền phương và đội Phẩu quân y rút về Ô Cạn – Ba Chúc. 7 giờ tối, tất cả tập trung nghe phổ biến kế hoạch hành quân. Được tin quân báo, địch đã chiếm lĩnh con đường mòn từ đồi xuống Lương Phi, đọan Ô Tà Miệt, nên phải đi vòng ngoài đồng đến gần Voi Đá Bia mới áp vào ven cây về Ô Cạn.

 

Đoàn người bắt đầu lên đường, có tiểu đội vũ trang đi đầu, khóa đuôi bảo vệ. Đi ngang Ô Tà Miệt nghe tiếng mìn clay-mo và từng tràng tiểu liên M.16 nổ rộ trong ven cây. Không biết chuyện gì xãy ra, tất cả được ám hiệu ngồi xuống nghe ngóng, tiếp tục dò dẫm đi quá nữa đêm về đến Ô Cạn, mới biết khi tập họp chuẩn bị hành quân, đội Phẩu quân y bỏ quên bộ dụng cụ tiểu phẩu, cử hai y tá trở lại lấy, đi tụt lại phia sau theo đường mòn cũ lọt ổ phục kích địch, cả hai hy sinh!

 

Ngày 11 tháng 9 năm 1971 tôi được cử đi học trường Trần Phú Khu 8, hoàn thành nhiệm vụ gần một năm tôi sống, công tác và chiến đấu trên đồi Ô Tà Sóc cùng đồng chí, đồng đội vượt qua vô vàn hy sinh gian khổ, sống ngày nay chưa biết ngày mai sống hay chết! Đến nổi tôi hũy bỏ xấp thơ tình tôi viết cho vợ tôi, không muốn khi tôi chết địch lấy được, hay đồng đội tôi đọc được chuyện tình cảm riêng tư của vợ chồng tôi. Nhưng rồi may mắn đến với tôi, tôi lại không chết!             

 

Long Xuyên, ngày 27 tháng 10 năm 2020

 

                         Thương về miền Trung bão lũ

 

                                            N.M.Đ

 

Tác giả gởi cho viet-studies ngày 27-10-20