77 Năm Ngày Nam Bộ Kháng Chiến

23/9/1945 – 23/9/2022

 

Nguyễn Minh Đào

 

Trên Quê Hương Tôi

     Mùa Thu năm 1945 chiến tranh thế giới lần thứ hai kết thúc, Cách mạng tháng Tám thành công, Bác Hồ đọc Tuyên ngôn độc lập Ba Đình – Hà Nội khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, ngày nay là Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

     Những ngày tháng cách mạng sôi sục này làng quê tôi như ngày hội lớn, mọi người hồ hởi đứng lên cướp chánh quyền, xây dựng và bảo vệ chánh quyền cách mạng còn non trẻ. Những cuộc mít tinh, biểu tình sôi nổi của đồng bào các giới diễn ra liên miên. Các hoạt động của Thanh niên tiền phong, Thanh niên cứu quốc như tập quân sự, tập võ, đánh trận giả… rất hào hứng, khuấy động không khí rực lửa cách mạng khắp xóm làng. Khi ấy, tôi cùng các bạn nhỏ gia nhập Đội thiếu nhi cứu quốc, ngày ngày tụ tập ca hát, tập quân sự, đánh trận giả… Chưa bao giờ bọn nhỏ chúng tôi được vui như thế!

     Những tháng ngày được sống trong độc lập tự do thật ngắn ngủi! Giặc Pháp trở lại xâm lược nước ta lần thứ hai. Ngày 23 tháng 9 năm 1945 tiếng súng kháng chiến quân dân Nam Bộ nổ khắp nơi. Chánh quyền cách mạng ra lệnh mỗi nhà phải có tầm vong vạt nhọn, dây trói, mõ tre sẵn sàng đánh Tây nhảy dù, hay có sự biến gì đánh mõ báo động và khi nghe tiếng mõ phải hưởng ứng đánh theo. Không biết chuyện gì xảy ra, vài ba đêm khắp làng quê tôi tiếng mõ, tiếng trống vang dội giữa đêm khuya kéo dài cả giờ đồng hồ. Vài lần đầu ai cũng sợ, không thấy chuyện gì vẫn phải hưởng ứng để biểu thị tinh thần đoàn kết đánh Tây.

     Giặc Pháp sắp đánh tới nơi, gặp lúc nạn đói kém, dịch bệnh kẻ xấu loan truyền những điều nhảm nhí nào là “quỹ vương hiện hình giữa ban ngày”, nào là “sẽ tối trời tối đất bảy ngày đêm”, nào là “sắp đến ngày tận thế”… khiến dân tình xôn xao lo lắng; Nhiều nhà nấu cơm phơi khô, dự trử gạo muối, nước uống… phòng khi có biến!

     Tiếng súng đánh nhau ở Châu Đốc vọng về làng quê tôi, người ta tụ năm, tụ ba bàn tán lo âu, không biết những tháng ngày tới tình hình sẽ ra sao! Rồi, gót giày quân xâm lược giẫm tới Núi Sam, Nhà Bàn và khắp vùng Bảy Núi…Chúng đi đến đâu cướp bóc, bắn giết, đốt phá, hãm hiếp phụ nữ… gây tội ác kinh hoàng đến đó! Lực lượng vũ trang cách mạng còn non yếu không đủ sức ngăn bước tiến của giặc, rút về vùng rừng núi bảo toàn lực lượng. Sau đó bí mật trở lại đánh du kích, võ trang tuyên truyền, gầy dựng cơ sở cách mạng trong nhân dân...

     Một buổi chiều, nghe ba má và chị Hai tôi nói chuyện nhỏ to với nhau, được tin cậu Sáu tôi – ông Đặng Hữu Hào, bí danh Nhậm vừa hy sinh ở Núi Sam, khi giặc Pháp ở Châu Đốc bất ngờ vào càn quét. Cậu được người cận vệ chống xuồng chạy ra đồng lúa đang mùa nước nổi, địch phát hiện bắn theo cậu trúng đạn hy sinh! Sau này theo lời kể của ông Hiếu Liêm phó chủ tịch UBND tỉnh An Giang là người hoạt động cách mạng cùng thời cậu Sáu tôi cho biết, cậu hy sinh ngày 19 tháng 7 năm 1946 đang là phó bí thư Quận ủy Châu Phú giữa tuổi 31 (sinh năm 1915). Cậu Sáu tôi làm cách mạng thuộc lớp người “tiền khởi nghĩa”, sống độc thân. Cậu là người con đầu tiên của ngoại tôi ngã xuống trong cuộc đấu tranh vì độc lập tự do của dân tộc!

     Khi ấy giặc Pháp chỉ chiếm đóng các thị xã, thị trấn và những con đường giao thông huyết mạch. Đại bộ phận nông thôn, rừng núi quân ta vẫn làm chủ, hoặc ở trong thế “cày răng lược” với địch. Ở các làng Nhơn Hưng, Thới Sơn, Xuân Tô quận Tịnh Biên có bộ đội anh Trần Thắng đứng chân hoạt động, đánh trả một số trận càn quét của địch giành thắng lợi làm cho kẻ thù khiếp sợ, đồng bào vui mừng hả dạ! Nhất là trận phục kích chặn đánh trên đường đi càn quét về của tên cò Lửa, đội Xường ở đồn Nhà Bàn tại chòm mả đường Nhà Bàn đi Cây Mít diệt một số tên trong đó có tên đội Xường, thu một số súng, tên Cò Lửa chạy thụt mạng về Nhà Bàn. Bọn giặc ở Châu Đốc huy động tiểu đoàn lính Lê Dương vào truy kích bộ đội ta, chúng đốt phá chà xát mấy ngày không làm gì được quân ta.

     Làng quê tôi ngập chìm trong khói lửa, đồng bào tản cư lánh nạn khắp nơi. Gia đình tôi tản cư vào chợ quận Tịnh Biên. Giặc Pháp ra sức càn quét đánh phá vẫn không bình định được quê tôi, làng xóm xơ xác tiêu điều vườn không nhà trống!

     Đầu năm 1947, ba tôi đưa gia đình trở về quê nhà tạm trú xóm Bến Lúa trên bờ Bắc kinh Vĩnh Tế. Đây là vùng tranh chấp, hầu hết người dân theo đạo Phật giáo Hòa Hảo tản cư ra vùng ven Châu Đốc. Lúc này giặc Pháp vẫn chưa tái lập xong bộ máy cai trị, lực lượng cách mạng làm chủ ban đêm, ban ngày làm chủ những nơi có địa hình thuận lợi.

     Thời kỳ đầu cách mạng, quan điểm đường lối chánh sách của Đảng và Bác Hồ chưa quán triệt đến mọi cá nhân và tổ chức, nên bộc phát những hành vi manh động. Hồi đó, quê tôi có ông Tư Hỷ người cùng xóm gia đình Ngoại tôi, ông theo cách mạng từ những ngày đầu Cách mạng tháng Tám chỉ huy một đơn vị Quốc vệ đội (như Công an vũ trang ngày nay) chừng một trung đội. Người ta gọi ông là “bà cố Hỷ” vì ông rất táo tợn trong hoạt động trừ gian diệt ác, giết người không gớm tay! Người dân xem ông như “hung thần”, có bất hòa họ chưỡi nhau “bà cố Hỷ bắt mày!”.

     Khi gia đình tôi tạm trú xóm Bến Lúa, đêm nọ trời vừa sụp tối nghe mấy loạt súng nổ đầu trong xóm đạn bay vèo vèo, cả nhà nằm dưới đất tránh đạn nghe ngóng không biết chuyện gì. Một chập sau nghe tiếng nhiều người nói chuyện ồn ào kéo tới, thì ra đơn vị Quốc vệ đội của “bà cố Hỷ”. Họ tiếp tục kéo ra xóm Bà Bài, lâu lâu nghe tiếng súng của họ vọng lại, độ một giờ sau thấy ánh lửa cháy rực từ xóm Bà Bài lần vào, thì ra họ đốt nhà dân! Hồi ấy, trên kinh Vĩnh Tế thường có ghe người Chăm ở Châu Phong, tôi nghe người ta gọi Chà Và đi mua bán gạo và đệm bàng, bị ông Tư Hỷ bắt mấy ghe gần 10 người có cả đàn bà và trẻ con, gán họ tội “làm do thám cho Tây”! Họ bị trói, bịt mắt dẫn lên đồng xóm Bến Lúa gần biên giới giết sạch, hàng hóa tịch thu, ghe bị đốt. Đêm sau có ghe chưa chìm trôi lờ đờ theo con nước lớn ròng, lửa cháy bập bùng như hồn ma người chết hiện về kêu khóc oán than! Năm 1949 hay 1950 gì đó tôi nghe nói ông Tư Hỷ làm tướng cướp bị cách mạng trừng trị.

Cương Quyết Ra Đi

     Gia đình ở xóm Bến Lúa tôi vẫn thường vào nhà ngoại trong vườn, thấy cán bộ, bộ đội tới lui hoạt động nhộn nhịp làm cho tôi rất phấn chấn, cảm thấy ngày nước nhà độc lập không còn xa. Dưới mắt tôi các cô chú, anh chị cán bộ, bộ đội sao mà hùng dũng, thân thương quá, tôi ước ao mình được như vậy. Một buổi trưa mấy chị em tôi chơi quanh quẩn dưới bóng mát hàng cây trước nhà, bổng nghe tiếng đồng ca: “Mùa Thu rồi ngày hai ba, ta đi theo tiếng kêu sơn hà nguy biến…”. Tôi chạy ra bờ kinh thấy một chiếc ghe trần căng buồm hướng Cây Mít đi ra, trên ghe có mấy anh bộ đội mặc quân phục, đầu đội mũ ca-lô, tay ôm súng vừa ca vừa gỏ nhịp. Đây là lần đầu tôi nghe bài ca Nam Bộ kháng chiến sáng tác Tạ Thanh Sơn :“Nóp với giáo mang ngang vai, nhưng thân trai nào kém oai hùng…”. Chiếc ghe từ từ đi ngang nhà, tiếng ca trầm bổng như thúc giục tôi ra đi tham gia kháng chiến.

     Tôi nôn nao xin ba má cho tôi đi kháng chiến, ba má tôi nói: “Con còn nhỏ, ráng một hai năm nữa ba má cho con đi”. Tôi năn nĩ: “Ba má cho con đi bây giờ, mai mốt độc lập còn đi đâu nữa…!”. Thấy tôi quyết chí ba má bằng lòng cho tôi đi kháng chiến, tôi mừng vô cùng!

     Sau mấy ngày chuẩn bị, tôi được cậu Mười đưa vào công tác ở Văn phòng Quận ủy Tri Tôn, có cậu Bảy tôi là cán bộ lãnh đạo ở đó. Lúc ấy cuối năm 1947 tôi hơn 11 tuổi. Đến nay, tôi vẫn nhớ những tháng ngày đầu tiên đời mình chập chững vào con đường cách mạng. Trong cơ quan tôi là người nhỏ tuổi nhất, công việc hàng ngày là quét nhà, nấu nước pha trà cho các chú uống, nấu cơm, kiếm cũi, đi thơ… Tôi thấy cậu Bảy và các chú lãnh đạo quận là những người nghiêm khắc và xa cách! Nhiều lần tôi bơi xuồng đưa các chú đi họp ở tỉnh, từ Giồng Cát theo kinh Tám Ngàn đến kinh Ngay xuống Lình Quỳnh nơi cơ quan tỉnh trú đóng đường xa dằng dặc đi gần suốt đêm, tôi bơi lái chú lãnh đạo bơi mũi, nhiều lúc chỉ một mình tôi bơi. Đêm khuya vắng vẻ, buồn ngủ cũng ráng bơi, lâu lâu ngoái nhìn phía sau xem có “ma” ngồi sau lưng không!

     Tháng ngày trôi qua, những gian khó thiếu thốn trong cuộc sống tôi quen dần, mọi công việc cơ quan giao tôi đều làm tròn. Năm 1948 tôi được đi học khóa huấn luyện “Cây Đuốc Sống” đào tạo cán bộ thiếu nhi của Tỉnh đoàn Thanh niên cứu quốc anh Phạm Phùng Tu làm Tỉnh đoàn trưởng, đóng gần cầu Lình Quỳnh trên lộ đá kinh Ngay Rạch Giá – Hà Tiên.

     Được đi học mở mang trong tôi bao điều mới lạ! Sau khóa học tôi trở thành cán bộ công tác thiếu nhi của tỉnh, thường đến các xã ấp vùng giải phóng vận động tổ chức và hướng dẫn sinh hoạt Đội thiếu nhi cứu quốc.

     Năm 1949, Tỉnh đoàn thanh niên cứu quốc tổ chức Đội Thanh niên xung phong do nhạc sĩ Hiếu Nam làm đội trưởng, anh Hoàng Nam làm chánh trị viên, tôi được kết tập vào đội cùng mấy bạn nhỏ khác. Đội hoạt động khắp vùng giải phóng tỉnh Long Châu Hậu với nhiệm vụ tuyên truyền vận động đồng bào thực hiện nếp sống “đời sống mới”; tổ chức, phát triển Đoàn thanh niên cứu quốc và Đội thiếu nhi cứu quốc; họp xóm ấp tuyên truyền chủ trương, chánh sách của Chánh phủ kháng chiến, biểu diển văn nghệ, tiêm chủng phòng dịch v.v…

     Công tác Đội thanh niên xung phong tuy vất vã vì phải di chuyển luôn, ăn ngủ thất thường, nhưng được sống trong dân và biết đây biết đó, nhiều khi được ăn ở sung sướng. Vui nhất là những đêm biểu diển văn nghệ, tuy khả năng ca hát, diển kịch… rất sơ đẳng, vậy mà đêm biểu diển văn nghệ nào cũng thu hút đồng bào tới xem rất đông và luôn được cổ vũ nồng nhiệt!

     Cuối năm đó, Tỉnh đoàn thanh niên chọn tôi đi học bổ túc văn hóa ở Trường Tiểu học huyện Long Mỹ, tỉnh Cần Thơ do anh Bạch Lý - Ủy viên thường vụ Tỉnh đoàn hướng dẫn, nhân anh được điều về công tác ở Ban cán sự Đoàn thanh niên cứu quốc Khu Tây Nam bộ. Trong kháng chiến chống Pháp, vùng giải phóng tỉnh Long Châu Hậu sau là tỉnh Long Châu Hà đất rộng người thưa, đời sống đồng bào, cán bộ, chiến sĩ khó khăn thiếu thốn vô cùng, ngay như gạo cũng thiếu ăn, phải ăn cơm lường, ăn độn khoai sắn… Ai được đi công tác hay đi học ở khu xem như một “đặc ân”!

     Năm ấy tôi 13 tuổi, gia đình tôi năm 1948 rời quê nhà vào sinh sống lập nghiệp trong vùng giải phóng xóm Mũi Tàu kinh Tám Ngàn. Trước ngày lên đường tôi được nghỉ phép về thăm nhà, ba má biết tôi đi xa lâu ngày chuẩn bị hành trang cho tôi khá tươm tất.

     Ngày lên đường, tôi cùng anh Bạch Lý theo đường giao liên ra Hòn Đất, đến ở trong ngôi nhà ngói xưa nằm chênh vênh trên sườn hòn nhìn ra biển. Chủ ngôi nhà là một ông lão ngoài lục tuần tướng mạo phương phi, không biết ông tu theo đạo gì mà mặc áo choàng trắng, ăn chay trường, cuộc sống gia đình ông rất sung túc, tiếp đãi chúng tôi rất thân tình. Ở nhà ông một ngày đêm được ăn những bữa cơm chay với những món nấu khá cầu kỳ, ăn cơm xong tráng miệng bánh tây, uống cà phê và trà hảo hạng, hút thuốc lá Melia… Tôi không ngờ trong vùng giải phóng đời sống khó khăn, mà có nhà cuộc sống phong lưu đến vậy!

     Hôm sau đoàn chúng tôi gần 10 người lên đường, xuống một chiếc ghe biển giương buồm ra khơi hướng về vàm sông Cái Lớn. Mặc dù thời tiết tốt sóng gió không lớn, ghe vẫn nhảy sóng lắc lư đủ cho những ai lần đầu đi biển như tôi say sóng, ói mửa hết những gì có trong dạ dày! Xế chiều ghe vào vàm sông Cái Lớn, nhìn hai bờ sông vườn dừa nước muôn trùng, thấp thoáng những xóm nhà phía trong khi ẩn khi hiện, đó đây những cụm khói chiều nhẹ bay. Khung cảnh thật yên bình, nên thơ như bức tranh thủy mặc!

     Đến trạm giao liên tỉnh Rạch Giá đóng trong nhà dân trên bờ một con rạch, chúng tôi được nghỉ một ngày tiếp tục lên đường, đi bằng xuồng hai chèo. Đi mấy ngày đêm qua mấy trạm giao liên, anh Bạch Lý đưa tôi đến cơ quan Ban cán sự Thanh niên cứu quốc Khu Tây Nam Bộ trú đóng trong nhà dân, nơi ở và làm việc riêng, ăn cơm chung với Văn phòng Khu ủy đóng trong ngôi nhà ngói lớn gần đó. Những bữa cơm ở Văn phòng Khu ủy đối với tôi như những bữa tiệc, bữa ăn nào cũng có 2 - 3 món rất ngon, dọn mâm bàn đàng hoàng, dùng chén bát sành sứ xưa, ăn đũa hai đầu, trước khi ăn trụng trong chảo nước sôi tiệt trùng.

     Anh Bạch Lý lo thủ tục đưa tôi nhập học năm học 1949 – 1950. Đây là ngôi trường tiểu học kháng chiến do Huyện ủy Long Mỹ mở cho con em cán bộ học, ăn ở nội trú và mở rộng thu nhận con em đồng bào trong vùng. Thời gian học ở đây tôi chứng kiến một sự kiện. Đó là năm 1950 tại thị trấn Long Mỹ Khu 9 tổ chức cuộc lể kỷ niệm ngày Quốc Khánh 2 tháng 9 và chào mừng phái đoàn Chánh phủ Trung ương do bác sĩ Phạm Ngọc Thạch dẫn đầu vào Nam Bộ công tác. Cuộc lể chuẩn bị nhiều ngày, thị trấn Long Mỹ được dọn dẹp quang đãng, khán đài dựng lên khá đồ sộ tại sân vận động cũ, với những gian hàng triển lãm thành tích kháng chiến của quân dân miền Tây Nam Bộ. Cầu tàu cũ của thị trấn được sửa lại đón ca nô chở phái đoàn Chánh phủ đến. Một số con đường dẫn đến khán đài hành lể được mở ra, cấm cột điện và đèn chiếu sáng, hệ thống truyền thanh giăng mắc ven đường… tạo cho thị trấn bộ mặt mới.

     Công việc chuẩn bị càng gần đến ngày lể càng khẩn trương. Cuộc lể diển ra trọng thể, có hàng ngàn đồng bào trong vùng tới dự. Lần đầu tiên tôi thấy những thứ như đèn điện, chiếu phim, phòng triển lãm… Và, ấn tượng nhất đối với tôi là thấy bộ đội chủ lực trang bị súng lớn, súng nhỏ đầy đủ, mặc quân phục chánh qui rất oai hùng về bảo vệ cuộc lể rất đông, có nhiều khẩu súng cao xạ phòng không bố trí chung quanh sân lể, nòng súng vươn cao lên trời.

     Tôi vào học khoảng một năm, từ lớp nhì lên lớp nhất tiểu học, học chưa hết chương trình Tỉnh đoàn Thanh niên gọi về tỉnh.

     Tháng 7 năm 1954 chiến dịch Điện Biên Phủ toàn thắng, Đất nước vui như ngày hội! Thế nhưng, sau đó Hiệp định Gèneve về hòa bình Việt Nam được ký kết chia cắt Đất nước hai miền với hai chế độ chính trị khác nhau. Cán bộ, chiến sĩ và đồng bào miền Nam có quan hệ với kháng chiến niềm vui hòa bình lập lại chợt đến và tan biến như một giấc mơ, nỗi buồn và sự lo âu trĩu nặng trong lòng trước viễn cảnh phân ly, kẻ chuẩn bị xuống tàu tập kết ra Bắc chưa biết bao giờ gặp lại người thân, người ở lại miền Nam tiếp tục cuộc chiến đấu với kẻ thù mới, không ai có thể biết rồi sẽ ra sao?! Các cơ quan, đơn vị bộ đội được Đảng giáo dục chuẩn bị tư tưởng sẳn sàng chấp nhận mọi quyết định của tổ chức “đi vinh quang, ở lại cũng vinh quang!”.

     Tôi được đi tập kết. Một đêm khuya âm u tôi đi trong đoàn xuồng các cơ quan tỉnh Long Châu Hà rồng rắn xuôi dòng kinh Ngay hướng về Cái Sắn, xuống Thứ Mười Một – khu tập kết tỉnh Long Châu Hà thuộc huyện An Minh, tỉnh Kiên Giang ngày nay. Khi đoàn xuồng vào kinh Sóc Xoài chật hẹp, gặp chiếc ghe khá lớn đi cùng chiều áng giửa dòng kinh đoàn xuồng ùn lại, xuồng đi đầu đề nghị ghe cập vào bờ nhường đường cho đoàn xuồng vượt qua. Một yêu cầu hợp lý nhưng người trên ghe đáp lại bằng thái độ không mấy thân thiện: “Các ông đi tập kết sướng thân, bỏ dân ở lại làm sao sống được với giặc các ông có biết không?” Xuồng tôi đi tốp đầu nghe rõ từng lời trách móc đó, nói vậy rồi họ cũng nhường đường đoàn xuồng vượt qua, chúng tôi không ai đáp trả câu nào hay tức giận vì lời nói đốp chát đó, mà trong lòng cãm thấy như có lỗi với dân…!

     Đến khu tập kết Thứ Mười Một, chúng tôi chia nhau trú đóng trong nhà dân, ngày hai buổi học chính trị, sinh hoạt tin tức thời sự, làm việc nhà giúp dân. Chiều tập ca múa, ban đêm giăng câu đặt trúm bắt cá lươn cải thiện bữa ăn. Đồng bào khu tập kết Cà Mau trong đó có Thứ Mười Một đời sống khá sung túc, thương mến giúp đở cán bộ, bộ đội như người thân. Nói chuyện với chúng tôi bà con luôn nhắc đến ngày hết hạn khu tập kết chúng tôi xuống tàu ra Bắc, quân đội “Liên hiệp Pháp” tiếp quản vùng này ai cũng buồn và bồn chồn lo lắng, không biết cuộc sống lành dử sẽ ra sao?! Chúng tôi hiểu rõ tâm trạng bà con, khuyên bà con yên lòng chờ đợi sau hai năm nước nhà thống nhất chúng tôi trở về…! Nhưng, phải đến mười lần hai năm, trãi qua vô vàn hy sinh gian khổ lời hẹn ước đó mới thành sự thật!

     Được biết, sau khi quân đội “Liên hiệp Pháp” tiếp quản khu tập kết Cà Mau, tên Lâm Quang Phòng là cán bộ Việt Minh ra thành đầu hàng Pháp làm tỉnh trưởng Rạch Giá, đưa quân đến Thứ Mười Một đàn áp khủng bố đồng bào và người kháng chiến cũ gây nhiều tội ác. Năm 1958 bà Trần Quang Mẫn cơ sở cách mạng nhận nhiệm vụ ám sát tên Lâm Quang Phòng. Bà trà trộn vào nhà bà cô của y dự đám giổ, dùng dao chém y bị thương. Bà Mẫn bị địch bắt, chúng tra tấn bà dã man, cầm tù đến cuối năm 1966 mới thả!

     Ở khu tập kết Cà Mau hơn một tháng, tôi và một số người được lệnh ở lại, tôi rất buồn! Chúng tôi dự lớp tập huấn cấp tốc một tuần về nhiệm vụ, phương châm phương thức hoạt động công khai hợp pháp trong lòng chế độ Sài Gòn.

     Ngày trở về, tôi diện bộ quần áo pi-za-ma màu mở gà, đội nón cối trắng, mang đôi guốc gổ dong nhờ bà con mua giúp, trông tôi như một thư sinh. Tôi quá giang xuồng hai mẹ con người hàng xóm đi bán cá ở chợ Rạch Sỏi, cùng đi với ông cậu ruột cũng đi tập kết như tôi. Đi gần một ngày đến trạm Kiểm soát liên hợp Tắc Cậu (gồm Pháp và Việt Minh), trình giấy giới thiệu cơ quan quản lý khu tập kết, được cấp lại giấy thông hành. Đêm ấy, chúng tôi ngủ vất vưởng tại vựa cá. Sáng sớm, hai mẹ con người bán cá đưa cậu cháu tôi ăn sáng và đưa ra bến xe về Châu Đốc. Rạch Sỏi là một chợ nhỏ, nhưng lần đầu ra thành với tôi cái gì cũng lạ! Khi cậu cháu tôi nói lời từ biệt lên xe, hai mẹ con người bán cá vẫn đứng chờ đến khi xe chuyển bánh, tôi thấy người mẹ lấy khăn lau nước mắt…!

     Hình ảnh hai mẹ con người bán cá ở bến xe Rạch Sỏi và tấm lòng người dân Thứ Mười Một đối với chúng tôi; Cũng như nghĩa tình người dân đối với cách mạng trên mọi nẽo đường kháng chiến tôi đi qua vẫn hằn sâu trong ký ức tôi, là động lực giúp tôi vững vàng trong gian khó và vượt qua mọi nghịch cảnh đi trọn con đường cách mạng đời mình. /-

 Long Xuyên, ngày 23 tháng 09 năm 2022

 N.M.Đ      

 

 

Tác giả gởi cho viet-studies ngày 23-9-22