Hòa Hợp Dân Tộc Ở Việt Nam: Con Đường Xa Ngái

Nguyễn Trọng Bình

“...Gia tài của mẹ để lại cho con là nước Việt buồn!”

Trịnh Công Sơn

1. Khi niềm tin của người dân không còn

Có thể nói, từ cổ chí kim không một quốc nào phát triển và thịnh vượng mà bên trong quốc gia ấy không có sự thống nhất, hòa hợp của cả cộng đồng dân tộc. Và thước đo cho sự hòa hợp này chính là chỉ số niềm tin của mỗi cá nhân trong xã hội dựa trên ba mối quan hệ căn bản sau:

Thứ nhất, niềm tin giữa đại bộ phận dân chúng với chính quyền Nhà nước;

Thứ hai, niềm tin giữa những người dân với nhau;

Thứ ba, niềm tin hay đức tin tôn giáo của mỗi cá nhân trong xã hội.

Nếu như niềm tin giữa người dân với chính quyền là nền tảng quan trọng nhất tạo nên sự ổn định cho toàn xã hội dựa trên nguyên tắc bình đẳng và thượng tôn pháp luật thì niềm tin giữa những người dân với nhau chính là động lực để xã hội và đất nước phát triển bền vững trong sự kế thừa và sáng tạo, đa dạng và hài hòa, tôn trọng và chia sẻ, tương kính và bao dung...

Bên cạnh đó, để đất nước và xã hội ngày một trở nên văn minh và đáng sống, được bè bạn thế giới tôn trọng, kính nể thì mỗi cá nhân trong xã hội cần phải tự xây dựng cho mình có một niềm tin hay đức tin về một tôn giáo nào đó trong sự thông tuệ chứ không phải sự dị đoan, mê muội.

Từ những vấn đề trên, nhìn lại những gì đã và đang diễn ra ở xã hội Việt Nam hôm nay, có thể nói dân tộc này đang có nguy cơ kẻ trước người sau cùng kéo nhau xuống địa ngục nếu không kịp thời thức tỉnh.

Trước hết, nói về niềm tin của người dân với chính quyền Nhà nước, cho dù là người lạc quan nhất cũng phải thừa nhận tất cả mọi thứ đang gần trở về với con số 0. Có 2 vấn đề lớn mà người dân đã và đang cạn kiệt niềm tin với chính quyền Nhà nước hiện nay là: quốc nạn tham nhũng từ Trung ương đến địa phương và mối quan hệ mập mờ không rõ ràng với người “bạn vàng” Trung Quốc của thành phần lãnh đạo chóp bu.

Về quốc nạn tham nhũng, tuy không thể phủ nhận nỗ lực của ông Tổng Bí Thư trong công cuộc “nhóm lò đốt củi” hiện nay để lấy lại tin của nhân dân, tuy nhiên, câu chuyện này xem ra không dễ dàng chút nào nếu như bản thân ông vẫn không sẵn sàng “tử vì đạo”. Ví như người dân nhìn chung vẫn không biết liệu những cây củi to trong các vụ như Formosa - Hà Tĩnh, Thủ Thiêm – TP Hồ Chí Minh, hay vụ Vũ Nhôm – Bộ Công an, Út Trọc – Bộ quốc phòng, Nguyễn Bắc Son, Trương Minh Tuấn – Bộ thông tin và truyền thông... đang được tiến hành như thế nào? Vì tất cả những chuyện này cho đến nay vẫn luôn là chuyện bí mật “nộ bộ”, chưa có dấu hiệu nào cho thấy tinh thần thượng tôn pháp luật và sự công khai, minh bạch được phát huy và đề cao để người dân theo dõi, giám sát, tránh những sự bàn tán, đồn thổi, suy diễn không có căn cứ... Nói cách khác, với những gì đang diễn ra như hiện nay cũng không thể trách người dân đặc biệt là “các thế lực thù địch” của Đảng đồn thổi rằng công cuộc “nhóm lò đốt củi” này thực chất là cuộc thanh trừng lẫn nhau giữa các phe nhóm nhằm tranh giành quyền lực mang “màu sắc” Tập Cận Bình.

Về mối quan hệ với Trung Quốc thì gần như ai cũng nhìn thấy, tất cả mọi thứ đang lệ thuộc và rập khuôn cả về thể chế chính trị lẫn kinh tế. Dĩ nhiên không ai phản đối việc hai nước phải quan hệ ngoại giao với nhau vì đó là lẽ tất yếu, hơn nữa Trung quốc là một nước lớn lại có chung đương biên giới như một định mệnh về địa chính trị. Tuy vậy, vấn đề là mấy chục năm qua người dân chẳng bao giờ được biết những thỏa thuận, qua lại giữa hai bên diễn ra như thế nào vì tất cả đều bị chính quyền bưng bít, giấu kín. Điều duy nhất mà người dân nhìn thấy là sự bất bình đẳng và thiệt thòi cho sự phát triển đất nước hay thậm chí là nhu nhược của giới lãnh đạo nước nhà trong tất cả mọi vấn đề nhất là về chủ quyền biển đảo. Nói khác đi, với những gì đang diễn ra người dân hoàn toàn có cơ sở để nghi ngờ lãnh đạo chính quyền hiện nay chỉ biết đặt lợi ích của “Đảng ta” lên trên hết. Vì hơn ai hết, tuy thừa biết sự đểu cáng và mưu mô chước quỷ của người “bạn vàng” bên kia biên giới nhưng để bảo vệ và duy trì sự thống trị tuyệt đối của mình, “Đảng ta” đã và đang phải cố “chịu đấm ăn xôi” và nhất là bất chấp nguyện vọng của nhân dân. Đây cũng là nguyên nhân quan trọng nhất làm cho Việt Nam mấy mươi năm qua, tuy là một quốc gia có đầy đủ điều kiện, tiềm năng để phát triển nhưng lại “không chịu phát triển” và đang có nguy cơ tụt hậu xa hơn nữa.

Từ đây, nếu lấy sự thất vọng, bức xúc và phản ứng lại của người dân với chính quyền làm thước đo về chỉ số niềm tin trong cả hai vấn đề sẽ thấy hàng loạt vụ việc như: vụ Đoàn Văn Vương – Hải Phòng, vụ người dân xuống đường biểu tình vì “người bạn vàng” ngang ngược mang giàn khoan vào vùng biển Việt Nam, vụ Đồng Tâm – Hà Nội, BOT – Tiền Giang, vụ Thủ Thiêm – TP Hồ Chí Minh, và gần đây nhất là vụ người dân ở Bình Thuận liên quan đến Luật Đặc khu... âu cũng là một hệ quả tất yếu khi “lòng dân ý Đảng” đã không còn là một.

Như đã nói, niềm tin giữa người dân với chính quyền là nền tảng rất quan trọng để duy trì trật và tạo nên sự ổn định xã hội. Khi niềm tin giữa người dân với chính quyền cạn kiệt tất yếu sẽ kéo theo sự đổ vỡ niềm tin của hàng loạt mối quan hệ khác. Có một vấn đề mà ai cũng nhìn thấy là rất nhiều người Việt hôm nay (từ quan tới dân) rất siêng năng lui tới các cơ sở tôn giáo (nhất là vào các dịp Lễ, Hội và Tết cổ truyền hàng năm); hoặc tổ chức làm từ thiện một cách rất tự phát và rầm rộ. Thế nhưng, tất cả những điều này có vẻ như là một nghịch lý rất đáng phải suy ngẫm vì cả xã hội giờ đây đang vô cùng phức tạp và lộn xộn. Có lẽ rất khó để nói rằng người Việt hôm nay thật sự biết tương kính và yêu thương nhau thật lòng nếu nhìn vào hàng loạt những vụ án giết người rất man rợ (các hung thủ với tuổi đời còn rất trẻ nhưng không ngần ngại ra tay sát hại cả gia đình người khác); hoặc không thì đầu độc lẫn nhau bằng việc sản xuất và tiêu thụ thực phẩm bẩn, thực phẩm giả - vấn đề gần như không cách nào kiểm soát được.

Hay dễ thấy nhất hiện nay là nhiều người Việt sẵn sàng lao vào nhau, hoặc không thì ném ra tất cả những lời lẽ cay nghiệt và độc địa nhất dành cho nhau trên mạng xã hội về bất kỳ một vấn đề nào đó – một kiểu bạo lực tinh thần rất khủng khiếp.

Nghịch lý trên đây phải chăng cho chúng ta thấy rõ hơn sự bấn loạn về tinh thần, và rối loạn về nhân cách của người Việt trong xã hội hôm nay? Hay nói khác đi, vì mất niềm tin vào bản thân cũng như các mối quan hệ xã hội khác nên người Việt giờ đây đang cố ngụy tạo và che giấu bản chất thật của mình bằng những việc làm mà nếu chỉ nhìn bề ngoài sẽ thấy tất cả đều rất hoàn hảo, nhân ái, nhân văn nhưng bên trong thì hoàn toàn trái ngược. Người Việt hôm nay, phần nhiều nếu không phải đang mất phương hướng, không biết đâu là ý nghĩa của cuộc đời thì cũng là đang cố bám víu vào những niềm tin mù quáng, mê muội và tàn nhẫn. Từ quan tới dân, tất cả tìm đến các cơ sở tôn giáo không phải vì đức tin và sự chân thành sám hối, phục thiện mà trái lại những chốn linh thiêng ấy là nơi để họ trình diễn và phơi bày tất cả sự thô thiển và tham lam của mình. Các cơ sở tôn giáo giờ đây nếu không phải là chỗ để họ “hối lộ”, ra giá với “thần thánh” thì cũng là tấm bình phong để che đậy những âm mưu, thủ đoạn mượn thần thánh để “kinh doanh niềm tin” và kiếm chác từ sự mê muội của đồng bào mình.

Nói tóm lại, xã hội và con người Việt Nam hôm nay nhìn bề ngoài tưởng là rất trật tự, nề nếp và êm ấm nhưng kỳ thực bên trong là một xã hội vô pháp, vô thiên và cực kỳ hỗn tạp.

2. Hòa hợp dân tộc: con đường xa ngái

Khi con người không còn niềm tin vào bất cứ điều gì thì tất yếu sẽ sinh ra những hoài nghi và đố kỵ từ đó dẫn đến sự bất hợp tác hay thậm chí kích động lòng thù hận, sẵn sàng lao vào hành xử bạo lực (cả thể xác lẫn tinh thần) với nhau. Điều đó cũng có nghĩa sự thống nhất và hòa hợp dân tộc mãi mãi chỉ là giấc mơ không tưởng. Có hai vấn đề, hai sự kiện xảy ra gần đây nhất cho thấy người Việt hôm nay rất khó có sự hòa hợp và thống nhất để cùng nhau chung tay xây dựng và phát triển đất nước bền vững trong tương lai:

Một là, sự thờ ơ và lạnh nhạt của dân chúng trước sự ra đi của 3 vị những lãnh đạo cấp cao nước nhà từ đầu năm đến nay (gần nhất là 2 vị trong vòng 10 ngày). Trong cái nhìn quan so sánh với sự ra đi của Chủ tịch Hồ Chí Minh cách đây mấy mươi năm hay gần đây nhất là sự ra đi của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, rõ ràng có thể thấy phần lớn dân chúng hôm nay đã hiểu ra rằng không có lý do chính đáng nào để họ phải nhỏ nước mắt khóc “người dưng” cho dù đó là những ông quan to nhất của Đảng và chính quyền. Và dù rằng những “người có trách nhiệm” có cố gồng mình làm nên những cuộc tuyên truyền hay bày binh bố trận cho các nghi lễ quốc tang thêm hoành tráng thì trong mắt dân chúng đa phần chỉ là cái nhìn hắt hủi, ghẻ lạnh. Sự thật này cho thấy mối quan hệ giữa đại bộ phận dân chúng với chính quyền Nhà nước hôm nay dang vô cùng hời hợt và lỏng lẽo. Cũng không hẵn là dân chúng hôm nay đã bớt ngây thơ hơn về những vấn đề “chính chị, chính em” nhưng có một điều chắc chắn là họ đã không còn niềm tin và thiện cảm để có thể cùng nhau chia sẻ với nỗi đau chung với chính quyền và quốc gia dân tộc. Đây là sự tan rã đáng tiếc nhưng có lẽ là rất cần thiết để những người đang độc quyền cai trị đất nước hôm nay tự vấn lại lương tâm mình nếu như họ vẫn còn điều này.

Hai là, cuộc tranh cãi xung quanh đến sự ra đời của quyển sách “Gạc Ma – Vòng tròn bất tử” và những vấn đề liên quan đến cách dạy học trong sách “Công nghệ giáo dục” lớp 1 của GS Hồ Ngọc Đại. Nếu như, cuộc tranh cãi về sách “Gạc ma- vòng tròn bất tử” cho thấy sự cực đoan và bảo thủ của một bộ phận những người cộng sản và chống cộng sản thì vụ tranh cãi liên quan đến GS Hồ Ngọc Đại cho thấy sự chia rẽ và suy thoái của “tầng lớp trí thức”, “tinh hoa” trong xã hội liên quan đến vấn đề “đổi mới” nền giáo dục. Tất cả những vấn đề này một lần nữa cho thấy dân tộc Việt Nam hôm nay thật ra chỉ là một dân tộc rời rạc và ích kỷ, chưa bao giờ biết yêu thương và tương kính nhau thật lòng.

Có thể thấy, cùng thời điểm với những sự kiện trên thì nhân loại trên thế giới lại bất ngờ chứng kiến một sự kiện mang tính biểu tượng trên bán đảo Triều Tiên. Tuy tất cả vẫn còn ở thì tương lai nhưng với những gì đang diễn ra những người yêu chuộng hòa bình thế giới có quyền hi vọng về một sự thống nhất và hòa hợp giữa những người Triều Tiên trong một ngày không xa. Nếu điều này thực sự xảy ra, thì với sự phát triển thịnh vượng sẵn có của người dân miền Nam kết hợp với sự đoàn kết, giỏi chịu đựng và cần cù của người miền Bắc tin rằng dân tộc và quốc gia Triều Tiên thống nhất sẽ còn vươn xa hơn nữa. Và nếu điều này xảy ra thì những người Việt hôm nay có cảm thấy xấu hổ không khi quốc gia, dân tộc hòa bình thống nhất hơn 40 năm nhưng sự hận thù và nghi kỵ lẫn nhau vẫn không có dấu hiệu dừng lại?

3. Thay lời kết

Người Việt đang mất niềm tin và ngày một trở nên bấn loạn, từ đó đưa đến sự nghi ngờ, nghi kỵ lẫn nhau. Đây là một sự thật cần được nghiêm túc nhìn nhận. Không những vậy, nó còn là một rào cản có tác động và ảnh hưởng rất lớn đến tiến trình hội nhập và phát triển của đất nước. Vì dân tộc không có sự hòa hợp cũng đồng nghĩa với nội lực quốc gia bị suy yếu, là cơ hội cho các thế lực bên ngoại lợi dụng.

Tuy nhiên đáng tiếc thay, có không ít người, đặc biệt là giới lãnh đạo chính quyền ở Việt Nam hiện nay không dám dũng cảm nhìn nhận thực tế này mà trái lại luôn đổ lỗi cho nguyên nhân khách quan từ bên ngoài. Hoặc không thì lại tư duy và lập luận rất hời hợt rằng, sự ra đời và bùng nổ của công nghệ truyền thông nhất là mạng xã hội đang gây ra những phiền lụy nhất định đối với sự phát triển của đất nước. Hay “bên cạnh những tiện ích thì mạng xã hội cũng có nhiều mặt trái...”. Chỉ vậy thôi là họ dàn cảnh để tuyên truyền sau đó là bấm nút thông qua luật an ninh mạng để dễ bề kiểm soát dân chúng nhằm củng cố quyền lực của mình.

Thực ra, thì cho dù có mạng hay không có mạng xã hội thì người Việt hôm nay cũng đã và đang bị mất phương hướng, mất niềm tin và ngày một trở nên bấn loạn hơn trong cuộc sống. Mạng xã hội chẳng qua chỉ là phương tiện hữu dụng và tiện lợi để tất cả mọi người trong xã hội trình diễn và phơi bày tất cả sự bấn loạn của mình. Lãnh đạo, chính quyền lẽ ra phải thấy được điều này và quan trọng hơn hết là phải làm sao sốc dậy và vực lại niềm tin cho người dân chứ không phải chỉ biết nghĩ cho mình một cách ích kỷ như vậy. Một khi niềm tin của người dân đã không còn thì dù anh có cấm đoán thế nào thì cũng không ngăn được những nỗi bức xúc cần được giải tỏa của họ. Và một khi những bức xúc ấy bị dồn nén lên đến đỉnh điểm thì một sự bùng nổ tất yếu sẽ xảy ra. Đất nước khi ấy có khi lại rơi vào cảnh loạn lạc, binh biến, anh em lại “nồi da xáo thịt” theo một kịch bản chẳng ai lường trước được.

CT, 0102018

NTB

Tác giả gởi cho viet-studies ngày 4-10-18