Fukuyama và tiếng cười nhạt cuối cùng

Nguyễn Quang Dy

 

Hôm qua vào mạng Viet-studies đọc thấy bài này hay quá (The Last Hollow Laugh, AEON, March 21, 2017). Tuy không biết tác giả (Paul Sagar), nhưng tôi đã đọc một mạch. Khi phân tích cuốn sách gây tranh cãi The End of History and the Last Man (Francis Fukuyama, 1992), Paul Sagar không chỉ bênh vực Fukuyama mà còn lý giải rất hay về Trumpism. Tôi đã định dịch, nhưng việc dịch mất thời gian, và bản dịch thường không hay bằng nguyên bản tiếng Anh, nên tôi xin tóm tắt để giới thiệu với những bạn đọc nào quan tâm đến bài viết này của Paul Sagar cũng như cuốn sách đó của Fukuyama. 

Cũng như nhiều người khác, tôi học hỏi được nhiều khi đọc cuốn sách gây tranh cãi đó của Fukuyama, nhưng thú thực lúc trước tôi chưa hiểu lắm về lập luận của ông ấy, và cũng hơi hoang mang khi thấy nhiều người phản bác. Vì vậy, khi đọc bài phân tích này của Paul Sagar, tôi thấy sáng tỏ hơn nhiều và thán phục tầm nhìn của Fukuyama. Đúng là lúc đó (năm 1992) Fukuyama chỉ nói đến nước Nhật (đang nổi lên thách thức Mỹ). Cách đây 25 năm, Trung Quốc chưa trỗi dậy, và nước Mỹ chưa có Trumpism.

Nhưng tại sao từ năm 1992 Fukuyama đã dự đoán được những gì xảy ra ở Mỹ năm 2016. Có rất ít học giả có thể đoán trước điều “tất yếu” đó. Noam Chomsky là một ví dụ khác, khi ông ấy dự  đoán từ năm 2010 về những gì xảy ra năm 2016. Lúc đó người ta chẳng thèm nghe và thậm chí còn hiểu lầm. Vì vậy, những người có tầm nhìn xa thường cô đơn. Cách đây 100 năm khi Albert Einstein nói về “sóng hấp dẫn” (hay “nếp nhăn”) của vũ trụ thì chắc nhiều người nghĩ rằng ông ấy khùng. Còn Einstein thì cho rằng “chỉ có hai điều vô hạn là vũ trụ và sự ngu xuẩn của con người” (và ông ấy không dám chắc về điều thứ nhất). 

Làm thế nào mà Fukuyama lúc đó lại nghĩ ra từ megalothymia để lý giải sự trỗi dậy của những người như Donald Trump. Đó là một thuật ngữ mà Fukuyama vận dụng khái niệm thần học của Plato để mô tả phần hồn của những kẻ độc đoán và tham vọng. Tuy cách đây 25 năm, cuốn sách gây tranh cãi của Fukuyama bị nhiều người chỉ trích, hiểu lầm và đối xử bất công, nhưng đến nay thì lập luận của ông ấy bỗng trở thành “tiên tri”.  

Lịch sử tư duy của con người nói chung và người Mỹ nói riêng thường rất gập ghềnh. Sau vụ khủng bố “9/11” và nhất là sau thất bại của cuộc chiến Iraq, người Mỹ càng chỉ trích tầm nhìn “sai trái” về “sự thắng thế” của trật tự thế giới dựa trên dân chủ tự do. Vì người ta ngộ nhận gán cho Fukuyama tầm nhìn đó, nên ông ấy trở thành nạn nhân của những lời chỉ trích bất công, như một sự hiểu lầm đáng tiếc. Theo Paul Sagar, cuốn sách của Fukuyama không đề xướng tầm nhìn đó, mà ông ấy chỉ muốn tìm hiểu để làm rõ lịch sử.  

Vì Fukuyama không phải là một học giả kiểu truyền thống, nên ông ấy hiểu Lịch Sử (viết hoa) như sự quan tâm sâu sắc đến cấu trúc sự tồn tại của xã hội loài người. Fukuyama cho rằng Lịch Sử đầy phức tạp bởi các lực lượng đối kháng triệt tiêu nhau để thúc đẩy xã hội phát triển. Ông lấy cảm hứng từ tác phẩm của nhà triết học Đức Georg Hegel, qua diễn giải của nhà triết học Nga Alexandre Kojève. Cả hai cùng đề xuất “Lịch Sử là quá trình qua đó các mâu thuẫn trong trật tự xã hội cũ triệt tiêu nhau bằng cách vượt qua xung đột để tiến tới một trật tự mới nơi các mâu thuẫn cũ biến mất vì sự đối kháng đã được hóa giải”.  

Ví dụ rõ nhất về quan điểm “biện chứng” đó là Karl Marx (cũng chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi  Hegel) cho rằng giai cấp tư sản và vô sản cuối cùng sẽ vượt qua đối kháng bởi môt giai đoạn cách mạng chống chủ nghĩa tư bản, để tiến lên chủ nghĩa cộng sản. Fukuyama cho rằng Lịch Sử (viết hoa) thực ra là quá trình phát triển của xã hội loài người một cách hợp lý hóa (giải quyết các mâu thuẫn một cách biện chứng), để tiến lên từng nấc một: từ thời Mông muội (Dark Ages), đến thời Phục hưng (Renaissance), qua thời Khai sáng (Enlightenment), với những phát kiến mở đường cho chủ nghĩa tư bản dựa trên dân chủ tự do.

Fukuyama đã vứt bỏ quan điểm siêu hình của Hegel cũng như quan điểm “duy vật biện chứng” của Marx. Thay vào đó, Fukuyama đề xuất phương pháp nghiên cứu khoa học hiện đại kết hợp với tiến bộ công nghệ, song song với nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, nhằm lý giải tại sao văn minh loài người đã tiến bộ được như vậy. Cái chốt là chủ nghĩa tư bản dựa trên dân chủ tự do là giai đoạn cuối của tiến trình Lịch Sử. Măc dù nó không hoàn thiện, nhưng đó là mô hình tốt nhất mà chúng ta có. Vì vậy, Fukuyama mới có câu nói nổi tiếng “Lịch Sử đã chấm dứt”, và  chúng ta đang sống trong giai đoạn “Hậu Lịch Sử”. 

Trong phân tích của mình, Fukuyama luôn nhấn mạnh đến yếu tố thymos (tiếng Hy Lap có nghĩa là “tinh thần”). Đó là sự công nhận tâm lý con người, mà Thomas Hobbes gọi là “tự hào” (pride) và Jean-Jacques Rousseau gọi là “tự trọng” (amour proper). Người ta luôn có nhu cầu được yêu thích và tôn trọng bởi người khác. Theo Fukuyama, một số người luôn ganh đua và tham vọng muốn được công nhận là đứng đầu. Có người muốn được tôn trọng, và nếu cảm thấy không được như ý, thì họ sẽ phá phách, gây rối.

Có đủ lý do để chúng ta cho rằng từ đỉnh cao đó người ta có thể trượt xuống dốc (quay trở về Lịch sử) nhưng ở mức độ tồi tệ hơn. Fukuyama cho rằng con người không chỉ có thymos mà còn có megalothymia. Đó là ham muốn không chỉ được tôn trọng và công nhận đúng mức, mà còn muốn thống trị kẻ khác một cách quá mức. Megalothymia không hẳn là xấu, nhưng nếu không nhắm tới mục đích đúng thì nó có thể trở thành tàn bạo, muốn thống trị và áp bức kẻ khác. Lịch Sử luôn ẩn tàng nguy cơ tại điểm kết thúc.   

Trong phần thứ hai của tên cuốn sách mà Fukuyama gọi là The Last Man, ông ấy đã tham chiếu và vận dụng quan điểm của nhà triết học Đức Friedrich Nietzsche, khi lập luận rằng xã hội hiện đại tuy nhấn mạnh sự thật và minh bạch, nhưng đã “giết chết Thượng đế” (killed God) mà không có gì khác để thay thế. Hầu hết con người hiện đại đều là những kẻ tiểu nhân, trì trệ, và nhàm chán, bị ám ảnh bởi thế giới vật chất tầm thường. Nói cách khác, nếu thiếu  megalothymia thì không còn gì lớn lao, mà chỉ còn sự tầm thường.

Nếu “người cuối cùng” (the last man or woman) không hài lòng với cuộc sống vật chất vì không đáp ứng megalothymia, họ sẽ buồn chán bởi tình trạng “nô lệ không có chủ” mà Fukuyama đề cập đến như cuộc sống dựa trên “tiêu thụ hợp lý”. Sự lan tỏa của khái niệm đại đồng cùng với chính trị dân chủ thế tục, dẫn đến sự phản ứng quyết liệt, đặc biệt bởi những người đã bị mất vị thế truyền thống tại nấc thang xã hội của họ, và họ cảm thấy bị lừa dối bởi không được công nhận như họ tin là mình xứng đáng (nghe quen quen?).

Fukuyama dự đoán rằng sự phản ứng đó cuối cùng phải có lối thoát chính trị và có thể trở thành bùng nổ. Nhưng cánh Tả và CNCS đã phá sản và thất bại. Những con người “hậu Lịch Sử” bị thúc đẩy bởi megalothymia sẽ không còn mơ hồ bởi thế giới đại đồng, hay thực tế độc tài trần trụi. Đe dọa lớn hơn đối với sự ổn định của các xã hội dân chủ tự do là sự trỗi dậy của các phần tử cực Hữu mị dân, sẵn sàng đáp ứng những lợi ích vị kỷ và sự phản tứng của dân chúng, lợi dụng những ham muốn của con người để giành quyền cai trị.

Ttrong tầm nhìn của mình về “Lịch Sử chấm dứt”, Fukuyama không dự đoán những biến động cụ thể của năm 2016 diễn ra thế nào. Ông ấy nói rất ít về Trung Quốc trong mối tương quan với Mỹ, trong khi đề cập nhiều đến Nhật. Tuy nhiên, Fukuyama biết rõ hơn nhiều người khác là năm 2016 sẽ đầy biến động, và những sự kiện đầy kịch tính năm 2016 sẽ dẫn chúng ta đi đâu. Tuy những kiến giải gần đây của Fukuyama không đề cập lại những chủ đề trong cuốn sách, nhưng chính Fukuyama, chứ không phải những người chỉ trích ông, mới có quyền cười nhạt. Khi Fukuyama đề cập đến sự nông cạn và trống rỗng về văn hóa của những người nổi tiếng, chắc trong đầu ông ấy đã có một ví dụ cụ thể, như biểu tượng megalothymia. Còn ai khác nếu đó không phải là Donald Trump. Điểm cuối cùng là, tuy Fukuyama không dự đoán cụ thể Trump chính là “người cuối cùng” (the last man), sẽ làm đảo lộn trật tự của thời kỳ “Hậu Lịch Sử”, nhưng ông ấy đã nói đúng hơn nhiều người khác.

NQD. 22/3/2017

 

 Tác giả gửi cho viet-studies ngày 22-3-17