Chuyến thăm Việt Nam của Thủ tướng Nhật Suga Yoshihide

Nguyễn Quang Dy

 

Ngày 16/9/2020, ông Suga Yoshihide (chủ tịch đảng LDP) đã chính thức trở thành thủ tướng Nhật Bản (với kết quả bỏ phiếu là 314/462). Ông là thủ tướng thứ 99 của Nhật Bản (đến tháng 9/2021 sẽ phải bầu cử lại). Có thể nói, chính phủ Suga là sự nối tiếp của chính phủ Abe mà không có Abe. Ông Suga sẽ tiếp tục chính sách kinh tế của ông Abe (Abenomics) và chính sách đối ngoại của chính phủ Abe: Nhật là đồng minh số một của Mỹ ở Đông Á, có quan hệ gắn bó với ASEAN theo tầm nhìn Indo-Pacific, và có quan hệ nhạy cảm với Trung Quốc. Cũng như ông Abe, ông Suga cũng chọn Việt Nam là nước đầu tiên để đến thăm (18-20/10) với cương vị Thủ tướng. Nhưng tại sao Tokyo lại chọn Việt Nam và Indonesia?

Thứ nhất, ông Suga không thể đi thăm Mỹ vào lúc này khi có đại dịch và cuộc tranh cử đầy kịch tính bước vào giai đoạn cuối (showdown). Đi thăm ASEAN là lựa chọn tốt nhất lúc này, khi đối đầu Mỹ-Trung tại Biển Đông tăng lên. Việt Nam là chủ tịch ASEAN, có vị trí chiến lược quan trọng và nhạy cảm tại Biển Đông, trong khi Indonesia là nước lớn nhất ASEAN, và thành viên nhóm G-20. Việt Nam và Indonesia có vị trí chiến lược quan trọng bậc nhất trong ASEAN. Hai nước này là cái đê ngăn Trung Quốc bành trướng xuống phía Nam.  

Thứ hai, chuyến thăm này của ông Suga tiếp theo cuộc họp ngoại trưởng bốn nước “Bộ Tứ” (Quad) tại Tokyo (6/10) tập trung bàn về tình hình căng thẳng ở khu vực Indo-Pacific và trật tự quốc tế sau đại dịch Covid-19. Cuộc họp không có tuyên bố chung vì quan điểm các nước khác nhau, và “Bộ Tứ” chưa có cơ chế làm việc chính thức (informal).  Đây là cuộc họp ngoại trưởng “Bộ Tứ” lần thứ hai, sau cuộc họp lần đầu tại Washington (9/2019).   

Trong bối cảnh các nước phải tập trung đối phó với đại dịch, Trung Quốc tranh thủ thời cơ để tăng cường gây sức ép tại Biển Đông. Các nước Mỹ, Canada (Bắc Mỹ) Anh, Pháp, Đức (Tây Âu), Nhật, Ấn Độ, Úc, Hàn Quốc (Châu Á) đang liên kết để đối phó với đại dịch, và hạn chế sự phụ thuộc vào nguồn cung của Trung Quốc. Trong khi Mỹ triển khai chủ trương “tách đôi” (decoupling) thì Nhật cũng đa dạng hóa chuỗi cung ứng (supply chain).

Trung Quốc đã lên tiếng phản ứng, gọi “Bộ Tứ” là “NATO Châu Á”. Tuy Hà Nội ủng hộ “Bộ Tứ” và tham gia “Bộ Tứ +3” (gồm Việt Nam, Hàn Quốc, Tân Tây Lan) để chống  dịch, nhưng Jakarta vẫn lưỡng lự vì ngại Trung Quốc phản ứng, và sợ làm ảnh hưởng đến vai trò “trung lập” (neutrality) của ASEAN. Nhưng gần đây, ASEAN nói chung và bốn nước “tiền tuyến” (frontline states) tại Biển Đông nói riêng (Việt Nam, Indonesia, Malaysia, Philippines) có thái độ cứng rắn hơn trước sức ép ngày càng trắng trợn của Trung Quốc tại Biển Đông.

Thứ ba, trong bối cảnh nước Mỹ bị phân hóa cao độ trong chiến dịch tranh cử tổng thống, vai trò quốc tế và cam kết đồng minh của Mỹ suy giảm, trong khi đối đầu Mỹ-Trung ngày càng quyết liệt, và hậu quả kinh tế của đại dịch Covid-19 ngày càng nặng nề. Vì vậy, Nhật phải tăng cường quan hệ với các nước khu vực Indo-Pacific để bảo vệ lợi ích của Nhật ở khu vực này, và giúp các nước ASEAN đương đầu với áp lực của Trung Quốc. Tuy lập trường của Nhật mềm mỏng hơn Mỹ, nhưng tăng cường hợp tác quốc phòng là “mấu chốt” (key point) trong chuyến thăm Việt Nam của ông Suga, sau khi ba chiến hạm Nhật vừa đến thăm cảng Cam Ranh (10/10), gồm tàu sân bay JS Kaga, tàu khu trục JS Ikazuchi, và tàu ngầm JS Shoryu.

Nhật đã tham gia “Five Eyes” (cơ chế tình báo năm nước Mỹ, Anh, Úc Canada, Tân Tây Lan) nay trở thành “Six Eyes”. Trong khi đó, Úc bắt đầu tham gia tập trận hải quân Malabar ở Ấn Độ Dương cùng Mỹ, Ấn Độ, Nhật (Bộ Tứ). Năm nay, quan hệ Trung-Úc ngày càng xấu đi sau khi Canberra kêu gọi điều tra nguồn gốc dịch Covid-19, làm Trung Quốc tức giận, áp đặt các biện pháp trừng phạt thương mại (không mua thịt bò và lúa mạch của Úc).

Gần đây, ba nước (Nhật, Úc, Ấn) xúc tiến “Sáng kiến Chuỗi Cung ứng Bền vững” (Supply Chain Resilience Initiative), nhằm giảm lệ thuộc vào Trung Quốc, và để ngỏ cho các nước ASEAN tham gia. Nếu Bắc Kinh hành xử thô bạo, thì các nước sẽ liên kết để cô lập Trung Quốc. Để hỗ trợ các doanh nghiệp Nhật rút khỏi Trung Quốc, Tokyo quyết định chi US$ 2,2 tỷ. Tháng 7/2020, Tokyo đã chi US$ 542 triệu để hỗ trợ 57 công ty đầu tư vào Nhật, và 30 công ty khác đầu tư vào ASEAN, trong số đó một nửa đầu tư vào Việt Nam. 

Việt Nam đang nổi lên như một nước kiểm soát thành công đại dịch, và trở thành một địa chỉ đầu tư lý tưởng tại khu vực cho các công ty Nhật đang rời Trung Quốc. Theo các chuyên gia Nhật, có ba lý do quan trọng làm cho Nhật quan tâm đến Việt Nam. Một là, số người Việt đến sống và làm việc tại Nhật tăng nhanh nhất (đến nay có 420.000 người). Hai là, Việt Nam có tốc độ tăng trưởng cao nhất về dòng vốn FDI từ Nhật, để điều chỉnh chuỗi cung ứng. Ba là, ASEAN có vị trí sống còn trong chiến lược của Nhật tại khu vực Indo-Pacific.

Tính đến 12/2019, Nhật đã cho Việt Nam vay (ODA) là US$ 23,76 tỷ (đứng đầu, chiếm 26,3% tổng vốn vay nước ngoài). Tính đến 9/2020, Nhật có 4.595 dự án FDI tại Việt Nam, với tổng vốn đầu tư là US$ 59,87 tỷ (đứng thứ 2 trong số 136 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam). Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu trong 9 tháng đầu năm 2020 là US$ 28,6 tỷ (giảm 1,8% so với cùng kỳ năm 2019), trong đó nhập khẩu là US$ 14,6 tỷ (tăng 3,1% so với cùng kỳ năm 2019), xuất khẩu là US$ 14 tỷ (giảm 6,4% so với cùng kỳ năm 2019).

Quan hệ Nhật-Việt đã phát triển rất mạnh trên cơ sở hai nước đã thiết lập quan hệ ngoại giao sớm (từ 21/9/1973), nâng cấp quan hệ lên Đối tác chiến lược (2009) và đối tác chiến lược sâu rộng (3/2014). Nhật là nước G7 đầu tiên công nhận quy chế kinh tế thị trường của Việt Nam (2011), và mời Việt Nam dự Hội nghị Thượng đỉnh G7 mở rộng (5/2016). Những năm gần đây, quan hệ Nhật-Việt đã phát triển lên một tầm cao mới, với các chuyến thăm chính thức của lãnh đạo hai nước, như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng (2015) và Nhật Hoàng (2017). Đặc biệt, Thủ tướng Abe Shinzo đã thăm Việt Nam bốn lần trong 8 năm cầm quyền.  

Theo Nikkei, trong chuyến thăm Việt Nam lần này của Thủ tướng Suga Yoshihide, ngay sau hội đàm Nhật-Việt (sáng 19/10), hai bên đã ký 12 văn bản hợp tác, trong đó có hiệp định chuyển giao thiết bị và kỹ thuật quốc phòng của Nhật cho Việt Nam. Đây là một bước phát triển quan trọng cho hợp tác an ninh-quốc phòng giữa hai nước, đặc biệt là an ninh trên biển. Nhật sẽ tiếp tục chuyển giao cho Việt Nam tàu tuần tra của lực lượng cảnh sát biển. Hợp tác an ninh là chủ đề chính trong các cuộc gặp của ông Suga với các lãnh đạo của Việt Nam.

Theo CSIS, Thủ tướng Suga Yoshihide đã “phá vỡ truyền thống” khi không đi thăm Mỹ trước mà đi thăm Việt Nam và Indonesia. Chuyến thăm này nhằm củng cố quan hệ của Nhật với khu vực, nơi Việt Nam và Indonesia có vai trò trọng yếu trong tầm nhìn Indo-Pacific tự do và rộng mở . Ông Suga nói: “Tôi chọn Việt Nam vì đó là địa điểm thích hợp nhất để tôi gửi thông điệp này ra thế giới”. Tuy liên minh Nhật-Mỹ vẫn là nền tảng của an ninh và ổn định trong khu vực, nhưng Nhật Bản có vai trò dẫn đầu đối với hòa bình và thịnh vượng tại đây.   

Sớm hay muộn, “Bộ Tứ mở rộng” sẽ là xu hướng tất yếu trong cấu trúc an ninh khu vực để đối phó với bành trướng và đe dọa của Trung Quốc. Tokyo thúc đẩy tầm nhìn Indo-Pacific không chỉ qua hợp tác an ninh quốc phòng (như tập trận và chuyển giao thiết bị quốc phòng), mà còn qua hợp tác toàn diện (như phát triển hạ tầng và đa dạng hóa chuỗi cung ứng). Vì vậy, Việt Nam phải cải thiện môi trường kinh doanh (như thủ tục minh bạch, thông thoáng), và nâng cao năng lực cho nguồn nhân lực (như ngôn ngữ và hiểu biết về văn hóa Nhật).

Tác giả gửi cho viet-studies ngày 19-10-20