Bản gốc của bài đăng trên báo Văn Nghệ (phiên bản trên báo Văn Nghệ không có 2 câu bôi vàng, xem dưới đây)

http://baovannghe.com.vn/noi-vong-tay-lon-kien-tao-cac-moi-quan-he-chien-luoc-dai-han-18191.html

 

 

 

Nối vòng tay lớn, kiến tạo

các mối quan hệ chiến lược dài hạn…

 

TS. ĐINH HOÀNG THẮNG

 

“Rừng núi giang tay nối lại biển xa…” Ban nhạc Hạm đội 7 Hoa Kỳ “phiêu” cùng người dân Đà Nẵng dưới chân cầu Rồng. Một đêm nhạc không thể nào xúc động hơn… được tổ chức trong không gian mở là khu vực hoạt động văn hóa đã thu hút hàng trăm người dân cỗ võ cho một tương lai mới mẻ đang hé chào. Những giọt nước mắt tràn đầy hạnh phúc nhưng cũng thật cay đắng… Không biết khi sáng tác ca từ này, “người hát rong” họ Trịnh thuở ấy có nghĩ rằng, rồi một ngày… “Nối vòng tay lớn” sẽ được những người bạn từ bên kia Thái Bình Dương, trình diễn ngay tại thành phố Đà Nẵng “có cứng mới đứng đầu gió” này — một biểu tượng cho cuộc đấu tranh vì độc lập, chủ quyền, vì sự hội nhập toàn diện của Việt Nam bung ra với thế giới?

 

 

Những ngày “Tết Độc lập” năm nay, cả nước tuy được tưới tắm các giá trị của hòa bình thật đấy, nhưng dấu ấn của bất định và bất toàn vẫn còn đeo đẳng khôn nguôi. Từ Hội nghị Ngoại giao lần trước (tháng 8/2016), Bộ trưởng Phạm Bình Minh đã khái quát các điều kiện quốc tế của ta: “Ở bên ngoài, môi trường chiến lược của nước ta đã và đang nổi lên nhiều thách thức chưa từng có, tác động trực tiếp đến các lợi ích an ninh và phát triển”[i]. Tại Hội nghị Ngoại giao lần này (tháng 8/2018), Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tiếp tục đánh giá, trước đây ta nhận định tình hình thế giới thay đổi nhanh chóng, diễn biến rất phức tạp, khó lường, cho đến nay nhận định ấy vẫn giữ nguyên giá trị; môi trường đối ngoại trong những năm tới sẽ còn phức tạp, sẽ còn khó lường. Tổng Bí thư chỉ thị cho đội ngũ làm công tác đối ngoại “cần thường xuyên theo dõi sát các diễn biến và dự báo đúng chiều hướng phát triển của tình hình bên ngoài và nhất là đánh giá thật kỹ các tác động đến Việt Nam, để không bị động, bất ngờ và có đối sách đúng”[ii].

 

Vòng tròn định mệnh…

 

Mãi mãi về sau, các thế hệ người Việt sẽ còn nhắc lại cái thời khốn khó, cái thế đứng chông chênh của những ngày tháng Tám năm ấy… “Ôn cố tri tân” cũng là cách để góp phần giải bài toán hiện tại. Lịch sử ngoại giao Việt Nam ghi nhận tầm nhìn xuyên không—thời gian của “những năm tháng không thể quên” ấy khi chúng ta khẳng định chính sách ngoại giao của nước Việt Nam mới là thân thiện với tất cả các nước. Riêng đối với Trung Hoa và Mỹ, chúng ta có mối cảm tình đặc biệt. Trung Hoa là nước gần gũi ta nhất về địa thế, về sinh hoạt, kinh tế cũng như về văn hoá. Còn Mỹ là nước dân chủ, không có tham vọng về đất đai mà lại có công nhất trong việc đánh bại kẻ thù của ta nên ta coi Mỹ như một người bạn tốt[3]. Lịch sử cũng đã ghi nhận“Tạm ước 14/9/1946” vào thời điểm bấy giờ là một giải pháp chính trị linh hoạt, tài tình nhằm cứu vãn Hội nghị Phôngtennơblô và kéo dài thêm khoảng thời gian hòa bình quý giá, để củng cố chính quyền dân chủ nhân dân, chuẩn bị cho cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc. Giai đoạn tiếp sau đó, Hồ Chí Minh còn viết tới 8 lá thư gửi Tổng thống và Ngoại trưởng Mỹ mà nội dung chủ yếu là yêu cầu Mỹ ủng hộ tinh thần cho nền độc lập mới thu hồi của Việt Nam, nhưng rồi tất cả đều rơi vào im lặng. Hồ Chí Minh buộc phải tìm một chọn lựa khác…

 

73 năm trôi qua, lịch sử lởn vởn cái nguy cơ lặp lại “vòng xoáy định mệnh” tháng 8/1945. Đọc kỹ “Địa-chính trị trong chiến tranh Việt Nam” của James Burnham, chuyên gia phân tích từ Cơ quan Tình báo Chiến lược (OSS), tiền thân của CIA ngày nay, có thể chiêm nghiệm thêm cái “điềm báo” bất ổn năm nào. Hồi bấy giờ, Burnham từng coi chiến tranh Việt Nam là một phần của cuộc tranh hùng để giành quyền kiểm soát Đông Nam Á và chiếm thế thượng phong tại Tây Thái Bình Dương. Trong một báo cáo đề ngày 20/11/1964, ông nhận xét: “Cuộc chiến tại Việt Nam không phải là vấn đề địa phương, không phải là vấn đề cục bộ. Đó là một trận chiến quan trọng trong cuộc tranh giành châu Á, Tây Thái Bình Dương và Biển Đông”[4]. Hơn nửa thế kỷ sau, Biển Đông lại dậy sóng dữ. Nhưng lần này, “các vai diễn” đã được thay thế. Trung Quốc từ chỗ “chống lưng” cho Việt Nam (trong kháng chiến) mà mục đích tối hậu cũng là mượn đường xuống Đông Nam Á, thì nay vẫn kiên định mục tiêu bá quyền ấy, nhưng đã bước lên vũ đài trong một tâm địa khác xưa. Với “giấc mộng Trung Hoa”, Trung Quốc quyết vượt đại dương để “ăn thua” với Hoa Kỳ, về lâu dài nhằm thay đổi “Trật tự quốc tế” hiện nay. Điều trớ trêu là Việt Nam luôn nằm trên con đường hành tiến của người Trung Quốc. Nói bang giao Việt—Mỹ là quan trọng, nhưng nó luôn quan trọng vì nhân tố thứ ba là nhìn nhận từ cái lăng kính địa—chính trị khắc nghiệt ấy.

 

Và giờ đây, kịch bản cũ hoàn toàn có thể xẩy ra, nếu Việt Nam không nhanh chóng hoá giải được điều mà Tổng bí thư cũng nhấn mạnh tại Hội nghị Ngoại giao năm nay: “Trong quan hệ với các đối tác quan trọng, nhất là các nước lớn, có những ‘điểm nghẽn’ nào cần tháo gỡ hoặc khâu ‘đột phá’ nào cần mở ra?”[5] Tổng bí thư nêu vấn đề một cách khá sát sườn : “Các khuôn khổ quan hệ đã ký kết có tạo được hiệu quả tương xứng với tên gọi hay còn mang nặng tính hình thức? Có giúp xử lý một cách hiệu quả các vấn đề phát sinh không?”[6] Đặt ra câu hỏi cũng là một cách trả lời. Thực tế vừa qua, khi Trung Quốc ép Việt Nam không được khai thác các giếng dầu ngay trong thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của mình, ấy vậy mà không một đối tác chiến lược (ĐTCL) nào trong hơn hai chục ĐTCL đứng ra “chống lưng” góp phần giúp Việt Nam “xử lý một cách hiệu quả” các vấn đề phát sinh ấy. Rõ ràng, tình hình thật đáng đáng phải báo động.

 

Thời đại cuốn màn sương…

 

Lịch sử sẽ còn nhắc lại tuyên bố nổi tiếng của Donald Trump tại Đà Nẵng (tháng 11/2017): “Tôi đến đây, giữa trung tâm của khu vực Ấn Thái Dương tự do và rộng mở” (FOIP). Từ cột mốc đáng nhớ ấy, các hành động và phản-hành động đã liên tục diễn ra giữa hai nước lớn Trung Mỹ, tình hình ngày một cẳng thẳng và chưa có điểm dừng. Liệu xung đột thương mại Mỹ—Trung tới đây có lan ra Biển Đông hay không? Theo một nghiên cứu của Deutsche Bank, nếu Mỹ thực hiện đến cùng việc đánh thuế 10% nhằm vào hàng xuất khẩu trị giá 200 tỷ USD từ Trung Quốc, thì tăng trưởng GDP hàng năm của đại lục sẽ giảm từ 0,2— 0,3%. Tình trạng bất ổn của xã hội Trung Quốc sẽ gia tăng. Chủ tịch Tập Cận Bình cho đến nay vẫn giữ im lặng, thay vào đó, đẩy Lý Khắc Cường ra “đứng mũi chịu sào”. Ông Tập, theo giới phân tích, đang “ủ mưu” cho cuộc chiến cùng lúc trên cả hai mặt trận: đối phó với các vấn nạn thương mại—công nghiệp—tài chính với Mỹ, đồng thời đối phó với làn sóng chỉ trích, thậm chí chống lại tệ sùng bái cá nhân ông trong xã hội. Nếu cùng đường, khó loại trừ khả năng Tập sẽ mở rộng xung đột với các nước trên Biển Đông như một hướng “giải toả”, nhằm “chữa trị” các bấn loạn trong nước.

 

Mà các xung đột về ngoại thương—công nghiệp—tài chính nói trên giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ cũng có thể lan ra Biển Đông theo một vec-tơ ngược lại. Theo những tin tức mới nhất, các cuộc đàm phán thương mại Mỹ—Trung vừa qua nặng về chi tiết nhưng không đạt được mấy tiến bộ. Khi các nhà đàm phán Mỹ nêu ra những trường hợp nhiều công ty Mỹ bị tổn hại bởi các tập tục của Trung Quốc thì Trung Quốc lập luận rằng họ đã tuân thủ các nghĩa vụ của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Hai ngày đàm phán ở Washington do các quan chức cấp thứ trưởng dẫn đầu chẳng làm được gì mấy để giải quyết tranh chấp thương mại—công nghiệp—tài chính ngày càng trầm trọng giữa hai nền kinh tế lớn nhất thế giới. Các cuộc thương thuyết kết thúc vào ngày 23/8 mà không ra được thông cáo chung. Cuộc đàm phán lần thứ tư này được nối lại vào lúc hai bên tiếp tục thực hiện lời đe dọa áp đặt thuế quan lên hàng hóa của nhau. Bắc Kinh đã đệ đơn khiếu nại lên WTO về thuế quan của Mỹ. Trong đàm phán, các nhà thương thuyết Trung Quốc nhiều lần viện dẫn điều mà họ nói là Bắc Kinh tuân thủ các qui định của WTO, một lập luận chẳng mấy gây ấn tượng đối với phía Mỹ. Một trong các nguồn tin mô tả phản ứng của Mỹ: “Chúng tôi không quan tâm đến WTO chừng nào quí vị còn cho phép tình trạng dư thừa sản lượng, phá hoại các ngành công nghiệp và đánh cắp tài sản trí tuệ. Chúng tôi sẽ không chịu bó tay đâu”.

 

Tất nhiên, thương mại không phải là nguồn gốc duy nhất dẫn đến sự căng thẳng giữa Washington và Bắc Kinh. Trung Quốc gần đây đã tự thừa nhận các hoạt động quân sự hoá của mình trên Biển Đông và Hoa Kỳ vẫn chưa có một chiến lược ngăn chặn hiệu quả. Đạo luật về chi tiêu quốc phòng năm 2019 (mang tên TNS John Sidney McCain III vừa qua đời sáng 26/8/2018), đã được Tổng thống Trump phê duyệt, là một trong những nỗ lực mới nhất của Mỹ ngăn chặn các hành động phi pháp của Trung Quốc trên Biển Đông. Liệu chính quyền Trump có kết nối các vấn đề thương mại với các biện pháp hữu hiệu hơn nhằm góp phần chống lại sự bành trướng trên các vùng biển đảo mà Bắc Kinh cưỡng chiếm của Việt Nam hay không? Bởi vì, theo đạo luật mới, Bộ Quốc phòng Mỹ sẽ công bố nhiều hơn các hành vi bức hiếp của Bắc Kinh ở Biển Đông. Các hoạt động quân sự và bồi đắp đảo của Trung Quốc trong khu vực cũng phải được thông báo ngay lập tức cho Quốc hội Mỹ và công bố rộng rãi để nắm rõ hơn về hoạt động của Trung Quốc.

 

Tuy nhiên, vấn đề then chốt hơn, nghiêm trọng hơn trong thời gian tới, chính là sư va chạm giữa hai quyết tâm chiến lược: “Sáng kiến Vành đai, Con đường” của Bắc Kinh (BRI), mà danh xưng lúc đầu là “Nhất đới nhất lộ” (OBOR) và “Chiến lược Ấn Thái Dương tự do và rộng mở” của “Bộ tứ Kim cương” (OFIP từ Nhật—Mỹ—Ấn—Úc). Phân tích về của cuộc đối đầu giữa BRI (hay OBOR) với OFIP này, Ngoại trưởng Đức Gabriel tuyên bố tại Hội nghị An ninh toàn cầu ở Munich ngày 17/2/2018: “Trung Quốc đang dùng OBOR để gây ra cuộc chiến giữa chế độ dân chủ và độc tài”. Còn Tư lệnh Thái Bình Dương, Đô đốc Harry Harris thì khẳng định: “Khu vực OFIP đang ở vào bước ngoặt lớn khi chứng kiến cuộc cạnh tranh địa-chính trị giữa tự do và áp bức”[7]. Trong một hàm ý gửi tới các quốc gia hay các tổ chức muốn hưởng ứng, như một “thành viên sau hậu trường” (shadow member) đối với OFIP, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Mattis mới đây tuyên bố: “Hoa Kỳ không gợi ý bất kỳ nước nào phải chọn giữa Mỹ hay Trung Quốc… Hoa Kỳ đề  nghị mối quan hệ “đối tác chiến lược”, chứ không phải lệ thuộc về chiến lược”; và ông Bộ trưởng tiếp tục: “Chỉ khi các quốc gia trở nên độc lập, không bị chi phối và trở nên vững mạnh thì mới giúp đỡ được nước khác, mới hỗ trợ được các quốc gia khác”. Giúp bạn cũng là tự giúp mình! Nguyên tắc này chẳng mấy xa lạ trong chính sách đối ngoại của Việt Nam, đang đặt ra cho Việt Nam những nghĩa vụ và trách nhiệm mới trong tương lai không thể thoái thác.

 

“Ba đặc khu” là OBOR trá hình

 

Trong khi Mỹ ngày càng tỏ ra không ngán đối đầu với sự bành trướng củaTrung Quốc trên Biển Đông và nhiều nước, điển hình mới đây nhất là Malaysia của Dr. Mahathir không còn muốn tham gia vào OBOR của Trung Quốc thì ở nước ta, mùa hè qua, rộ lên câu chuyện “Ba đặc khu”. Theo đánh giá của các chuyên gia trong nước, sự phát triển của cách mạng công nghiệp 4.0 chẳng những sẽ mang lại các công nghệ mới trong sản xuất, liên kết và kinh doanh, xây dựng nên những mạng dịch vụ chưa từng có, mà còn tạo ra những kết nối, tái cấu trúc các chuỗi cung ứng, dịch vụ, các công cụ và phương thức trong huy động – phân bổ các nguồn lực; bởi vậy mà vòng đời của sản phẩm thời CMCN 4.0 sẽ ngày càng ngắn lại và càng sớm bị thay thế. Nói cách khác, CMCN 4.0   đang loại bỏ gần như hoàn toàn mô hình các đặc khu như đang dự định hình thành. Đòi hỏi hàng đầu của Việt Nam hôm nay không phải là kéo thêm lực từ bên ngoài vào bằng mọi giá! Nhất là khi tình hình của ta và của khu vực đang tiềm ẩn nhiều mối nguy khó lường, vượt ra ngoài khả năng kiểm soát rất yếu kém hiện nay của đội ngũ quản trị quốc gia. Cho nên đi vào mô hình đặc khu là mắc bẫy OBOR, hay BRI trá hình, rất nguy hiểm và đầy thảm hoạ.

 

Để bắt đầu một tuần lao động mới, chúng ta nên xem lại các kinh nghiệm về xây dựng đặc khu của quốc đảo Singapore nổi tiếng. Đừng quên một chi tiết nhỏ nhưng có ý nghĩa lớn. Nguyên Bộ trưởng Bộ tài chính Singapore là người đã từng làm cố vấn cho Trung Quốc về việc xây dựng các đặc khu kinh tế. Là nước phát triển kinh tế thị trường chậm hàng nửa thế kỷ so với thế giới, tất cả các chính sách kinh tế-tài chính mà Việt Nam áp dụng đều đã được hàng trăm quốc gia trên thế giới thực hiện rồi, tại sao còn phải lo thực nghiệm? Và hãy cùng nhau đọc lại phiên bản tiếng Việt cuốn “Hồi ký Lý Quang Diệu”. Bởi vì, thật hiếm nguyên thủ quốc gia nào có thể cho bạn thấy nhiều góc khuất đến thế của thế giới, thấy cả một giai đoạn rục rịch chuyển giao của các nhà nước, qua giọng văn không kiêng nể. Thứ trưởng Ngoại giao Đặng Đình Quý cho rằng, ông Lý Quang Diệu là nhà lãnh đạo huyền thoại của châu Á, là nhân vật lập quốc của Singapore hiện đại. Rất nhiều lãnh đạo Việt Nam, từ Tổng bí thư Đỗ Mười, cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt và các nhà lãnh đạo khác sau này đều coi Lý Quang Diệu là người bạn chân thành, sâu sắc của bản thân các lãnh đạo và của Việt Nam nói chung. Theo các nhà quan sát ở ta, trong tất cả các cuộc tiếp xúc với lãnh đạo Việt Nam từ những lần đầu tiên vào những năm 1992 đến đầu những năm 2000, ông Lý Quang Diệu đều đưa ra những nhận xét rất thẳng thắn, mà đến giờ đọc lại những lời góp ý đó vẫn còn thấy giật mình.

 

Ông Lý Quang Diệu từng nói: “Lẽ ra vị trí số một ở châu Á phải là của Việt Nam”. Theo ông, vị trí địa lý chiến lược, tài nguyên thiên nhiên phong phú là hai yếu tố hàng đầu có thể đưa Việt Nam trở thành “con hổ ở châu Á”; càng vì có vấn đề Trung Quốc, Việt Nam càng phải trưởng thành lên như thế… Nhưng đáng tiếc ngày nay, năng suất lao động của người Việt Nam chỉ bằng 1/15 của người Singapore, 1/5 của người Malaysia, 2/5 của người Thái. Theo ông Lý, sự thành công của một quốc gia ngày nay bao gồm ba yếu tố chính là: (i) điều kiện tự nhiên, như vị trí chiến lược và tài nguyên thiên nhiên, (ii) con người và (iii) thời cơ; nhưng căn bản nhất vẫn là yếu tố con người… Cũng do vậy, Lý Quang Diệu đã rất lấy làm hối tiếc, vì Việt Nam không biết trọng dụng nhân tài, và cho rằng nhân tài của Việt Nam phần lớn đã định cư ở nước ngoài hết rồi.

 

*

*    *

 

Cục diện khu vực và thế giới ngày nay đang đi vào một bước ngoặt lớn; một dạng trật tự mới đang hình thành giống như cái bước ngoặt đã từng xẩy ra sau chiến tranh thế giới thứ hai. Bước ngoặt sau năm 1945 là mâu thuẫn “bất cộng đới thiên” giữa một bên là chủ nghĩa tư bản và một bên là chủ nghĩa cộng sản. Bước ngoặt 2018 hôm nay là xung đột quyền lực “một mất một còn” chi phối thế giới thế kỷ 21 giữa Trung Quốc và Mỹ. Sự giống nhau của hai “bước ngoặt” này là nguy cơ đẻ ra từ tình huống “trâu bò húc nhau ruồi muỗi chết”. Sự khác nhau giữa thời 2018 so với thời sau năm 1945 là các nước “bên thứ ba” hôm nay có nhiều khả năng làm chủ tình hình hơn, nếu ý thức được đầy đủ về quốc gia-dân tộc mình, về vai trò của đất nước mình trong cái trật tự đang hình thành ngày càng rõ nét. Liên quan đến Việt Nam, đất nước đã có quá nhiều trải nghiệm xương máu của cái thời bước ngoặt sau 1945 cho đến tận hôm nay, chúng ta càng phải thấm thía bài học khắc cốt ghi xương: “Ta càng nhân nhượng, kẻ muốn ăn thịt ta càng lấn tới” (lấy ý từ lời kêu gọi của Hồ Chí Minh). Sau cách mạng Tháng Tám là như vậy, từ sau Hội nghị Thành Đô đến nay lại càng như vậy! Điều hoàn toàn khác với thời 1945 là: Việt Nam hôm nay không phải là một nước nhược tiểu! Điều Việt Nam hôm nay cần làm và làm ngay: Phải ý thức được chính mình, sức mạnh của mình, của cộng đồng mà mình là thành viên, ý chí quyết sống, ý thức về vai trò và trách nhiệm của mình đối với khu vực, đối với thời đại!