VIỆC ĐỘT NHẬP CỦA TRUNG QUỐC VÀO VÙNG ĐẶC QUYỀN KINH TẾ CỦA VIỆT NAM VÀ CÁC BÀI HỌC TỪ QUÁ KHỨ

(China's Incursion into Vietnam's EEZ and Lessons from the Past)

Lê Thu Hường*

AMTI**, CSIS, 8-8-2019

 

https://amti.csis.org/chinas-incursion-into-vietnams-eez-and-lessons-from-the-past/

 

Dịch và chú giải: Một thân hữu của viet-studies


Hải Dương Địa Chất 8 (Haiyang Dizhi 8), một tàu khảo sát thuộc một tập đoàn của chính phủ Trung Quốc, đã bắt đầu khảo sát một vệt đáy biển rộng lớn vào ngày 3 tháng Bảy [2019] ở Đông Bắc bãi Tư Chính (Vanguard Bank) ngoài khơi Việt Nam. Con tàu rõ ràng đang thực hiện một cuộc khảo sát dầu khí trên hai lô Riji 03 và Riji 27 nằm bên trong thềm lục địa Việt Nam theo Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển (UNCLOS). Tàu khảo sát đó đã được hộ tống bởi các tàu khác, bao gồm lực lượng hải cảnh và dân quân biển Trung Quốc. Đồng thời, các tàu hải cảnh Trung Quốc đã quấy rối các hoạt động khoan của Việt Nam tại Lô 06-01 ở phía Nam.

Các cuộc xâm nhập của Trung Quốc vào thềm lục địa Việt Nam và vùng đặc quyền kinh tế (EEZ, Exclusive Economic Zone) hoàn toàn không phải là một hiện tượng mới. Vụ gần đây nghiêm trọng nhất xảy ra vào năm 2014, khi Trung Quốc hạ đặt một giàn khoan dầu, HYSY-981 [HǎiYáng ShíYóu 981, 海洋石油981, hải dương thạch du 981, trong nhiều tài liệu viết tắt là HD-981], vào vùng EEZ đã tuyến bố của Việt Nam, dẫn đến một cuộc khủng hoảng ngoại giao giữa hai nước láng giềng. Tình hình hiện tại gần bãi Tư Chính, tuy vậy, lại thể hiện một thách thức nghiêm trọng hơn ở nhiều mức độ.

 

Trước hết, các hoạt động khảo sát của Haiyang Dizhi 8 đặt ra một thách thức pháp lý: chúng chứng tỏ rằng Trung Quốc kiên trì theo đuổi kiểm soát hành chính trong đường 9 đoạn của mình bất chấp sự mâu thuẫn của tuyên bố đó với luật pháp quốc tế. Đây là lần đầu tiên họ tham gia vào một cuộc khảo sát như vậy kể từ khi đường 9 đoạn bị tuyên bố là bất hợp pháp bởi phán quyết của tòa trọng tài vào năm 2016. Bằng cách này, Bắc Kinh đang công khai kháng lại tính hợp pháp của các quyền thềm lục địa được UNCLOS bảo đảm. Khu vực này đã được Việt Nam khai thác tài nguyên thiên nhiên trong nhiều thập kỷ. Nhưng Bắc Kinh hiện đang cố gắng tạo ra một cuộc tranh chấp trên các khu vực về thực tế là không có tranh chấp trong quá khứ.

 

Các hành động của Trung Quốc cũng đặt ra một thách thức ngoại giao: Bắc Kinh đang thử thách không chỉ Việt Nam, mà cả Mỹ và cộng đồng quốc tế. Phản ứng quốc tế có sẽ tắt tiếng như sau phán quyết của trọng tài năm 2016 không? Trung Quốc đang công khai xúc phạm việc theo đuổi hòa bình trong giải quyết tranh chấp thông qua các cuộc đàm phán về bộ quy tắc ứng xử (COC) đang diễn ra với ASEAN. Tiến bộ đã được thông báo về quá trình ấy - mà nó đã dẫn đến một văn bản dự thảo đàm phán duy nhất - rõ ràng chỉ tồn tại trên giấy tờ, chứ không phải trong thực tế. Nó cũng phủ một bóng đen lên niềm hy vọng rằng COC bất kỳ nào cũng sẽ có tác động thực sự trong việc quản lý hoặc các tranh chấp hoặc cách ứng xử của Trung Quốc.

 

Cuối cùng, các hành động của Bắc Kinh là một thách thức kinh tế rất thực tế. Việc ép buộc liên tục của Bắc Kinh nhắm vào việc khai thác tài nguyên thiên nhiên của các bên yêu sách khác là nhằm buộc họ tham gia các kế hoạch thăm dò chung với Bắc Kinh, ngay cả ở những vùng biển không có tranh chấp.

 

Không bao giờ là đúng lúc để đối mặt với sự ép buộc cả, nhưng phép thử này của Trung Quốc diễn ra vào thời điểm Hà Nội đặc biệt bận rộn, không chỉ chuẩn bị cho vai trò Chủ tịch ASEAN sắp tới và nhiệm kỳ 2020-2021 của mình tại Hội đồng bảo an Liên Hợp Quốc, mà còn bận tâm với việc chuẩn bị cho Đại hội Đảng lần thứ 13 và kèm theo đó là sự thay đổi ban lãnh đạo tiềm năng vào đầu năm 2021. Có vẻ như Bắc Kinh đang gây áp lực lớn hơn đối với Hà Nội trước khi làm chủ tịch ASEAN như một phép thử tâm lý.


CÁC BÀI HỌC TỪ HYSY-981

 

Bắc Kinh đã tăng cường áp lực của mình ở Biển Đông không chỉ đối với Việt Nam mà còn đối với cả Malaysia và Philippines. Thật vô lý khi hy vọng rằng các chiến thuật mà Việt Nam áp dụng vào năm 2014 để đối phó với vụ HYSY-981 sẽ có hiệu quả tương tự ngày hôm nay, đặc biệt với việc Bắc Kinh hiện đang theo đuổi các hoạt động của mình với nhận thức về phí tổn uy tín của mình mà Trung Quốc dường như đã chuẩn bị chấp nhận. Bất kỳ nỗ lực nào với cái gọi là 'ngoại giao gọi loa' lần này sẽ phải được phối hợp nhiều hơn và bao gồm cả Mỹ, nước hiện đã tham dự vào, cũng như những nước ủng hộ trật tự quốc tế dựa trên luật lệ khác nữa. Nhưng ngay cả như vậy, chính ngoại giao như vậy không có khả năng dẫn đến một giải pháp bền vững cho cuộc đối đầu này. Việt Nam thì cho đến tận lúc này vẫn tránh theo đuổi các mối quan hệ quân sự chặt chẽ với các cường quốc khác hoặc các biện pháp pháp lý đối với Trung Quốc vì các biện pháp đó sẽ gây ra mối thù địch với Bắc Kinh, nhưng chúng vẫn cứ là các lựa chọn nếu Hà Nội quyết định rằng họ cần phải bảo vệ chủ quyền của mình.

 

So với vụ đối đầu với HYSY-981, các hoạt động khảo sát và quấy rối hiện tại của Trung Quốc đã nhận được sự chú ý của truyền thông và trao đổi ngoại giao ít hơn nhiều. Điều này chủ yếu là vì Hà Nội muốn kiểm soát tình cảm chống Trung Quốc tại Việt Nam và ngăn chặn các cuộc biểu tình hoặc bất ổn tiềm tàng. Năm 2014, Việt Nam đã chứng kiến ​​một loạt các cuộc biểu tình chống Trung Quốc dữ dội dẫn đến các hành động của đám đông dân chúng và hủy hoại tài sản quanh các nhà máy thuộc sở hữu của các nhà đầu tư Trung Quốc, Đài Loan, Nhật Bản, Hàn Quốc và thậm chí cả Việt Nam. Điều này gây ra thiệt hại cho uy tín của Việt Nam như một môi trường an toàn để đầu tư, và chính phủ có thể lo lắng về các phản ứng tương tự với bế tắc hiện tại. Chính phủ cũng không muốn phải đối phó với sự bùng nổ không kiểm soát của xu hướng dân tộc chủ nghĩa biến thành bạo lực.

 

Các phát triển tích cực cũng có thể đến từ các tình huống khủng hoảng. Vào năm 2014, tôi đã lập luận rằng vụ HYSY-981 tạo nên các kích thích bổ sung đối với tư duy chiến lược của Việt Nam và các chính sách đối ngoại và quốc phòng của quốc gia này, cũng như tạo nên một cuộc tranh luận hiếm hoi trong nước về cách quốc gia này có thể thoát khỏi quỹ đạo Trung Quốc. Vẫn còn quá sớm để nói kết quả sẽ ra sao trong thời gian này, nhưng tôi hy vọng nó sẽ góp phần vào sự phát triển hơn nữa trong chính sách Biển Đông của Việt Nam và tư thế quốc phòng - một kết quả cần tìm ra được trong Sách trắng Quốc phòng sắp tới của Việt Nam. Có lẽ cuộc khủng hoảng này sẽ dẫn đến sự phối hợp hơn nữa giữa Việt Nam và các đối tác Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương của mình. Nó cũng có thể góp phần tạo nên một khúc quanh, khuyến khích các quốc gia có yêu sách trong ASEAN tìm kiếm sự hợp tác hơn nữa về vấn đề này.


TÁC ĐỘNG RỘNG LỚN HƠN

 

Không như năm 2014, Bắc Kinh đang đồng thời gây áp lực không chỉ đến một  nước có yêu sách ở Đông Nam Á. Những sự cố này là một phép thử thực sự cho sự sẵn sàng của cả ASEAN lẫn cộng đồng quốc tế để bảo vệ các quyền chủ quyền và kinh tế của các quốc gia theo trật tự dựa trên luật pháp. Trừ khi các nước trong khu vực sẵn sàng nhìn xa hơn lợi ích quốc gia riêng rẽ và lên tiếng ủng hộ các bên yêu sách khác, các vi phạm trật tự hàng hải dựa trên luật pháp đang trở thành một điều bình thường mới mà nó sẽ không còn tạo ra phản ứng mạnh mẽ nữa. Tôn trọng luật pháp quốc tế, bao gồm các quyền được UNCLOS bảo đảm, nhất thiết phải được ủng hộ và bảo vệ bởi tất cả mọi người, kể cả những người không có yêu sách chủ quyền. Cho đến nay, chỉ có Mỹ là có lập trường công khai và rõ ràng về các hoạt động của Trung Quốc ở gần bãi Tư Chính.

 

ASEAN - bất chấp các cuộc họp của Bộ trưởng Quốc phòng và Ngoại giao đã diễn ra trong khoảng thời gian này - đã tránh gọi đích danh vấn đề trong các tuyên bố chung của mình, nhưng đã tranh luận về vấn đề này trong các cuộc họp. Tại Đối thoại chiến lược ba bên gần đây giữa Mỹ, Nhật và Úc bên lề các cuộc họp ASEAN, ngoại trưởng Mỹ Mike Pompeo cùng các bộ trưởng ngoại giao Taro Kono và Marise Payne đã bày tỏ quan ngại về 'các báo cáo đáng tin cậy về các hoạt động gây rối liên quan đến các dự án dầu khí từ lâu ở Biển Đông'. Các cuộc tham vấn cấp bộ trưởng Úc-Mỹ (AUSMIN, Australia-United States Ministerial Consultations) tại Sydney cuối tuần trước đã đưa ra một tuyên bố ủng hộ thẩm quyền của UNCLOS, hiệu lực của phán quyết của tòa trọng tài năm 2016, và tầm quan trọng của tự do hàng hải. Trong khi bày tỏ 'sự phản đối mạnh mẽ đối với các hành động cưỡng ép đơn phương bởi bất kỳ quốc gia yêu sách nào mà chúng có thể làm thay đổi hiện trạng và gia tăng căng thẳng', một lần nữa tuyên bố tránh gọi đích danh bất kỳ quốc gia hoặc sự cố nào là nguồn gốc của căng thẳng.

 

Bài học về phản ứng quốc tế bị tắt tiếng đối với phán quyết của trọng tài năm 2016 là quá rõ ràng để tính đến một phản ứng yếu kém khác. Bế tắc hiện tại đóng vai trò là bằng chứng cho thấy sự ép buộc của Trung Quốc sẽ tiếp tục và rằng tiến trình COC không tạo ra sự khác biệt nào trong các kế hoạch làm chủ Biển Đông của Bắc Kinh cả. Đây có thể là một cuộc khủng hoảng đối với riêng Việt Nam, nhưng nó cũng có thể là cơ hội cho cộng đồng quốc tế - ngoài Mỹ ra - phản ứng thích đáng với các vi phạm UNCLOS và xâm phạm thềm lục địa của một nhà nước ven biển.


*) TS Lê Thu Hường là nhà phân tích cao cấp trong Chương trình chiến lược và quốc phòng (Defence and Strategy Program) của Viện chính sách chiến lược Úc (ASPI, Australian Strategic Policy Institute), hiện đang nghiên cứu các vấn đề liên quan đến sự bất đối xứng quyền lực, chính sách đối ngoại ở các nước hậu xã hội chủ nghĩa, và chủ nghĩa đa phương ở châu Á. Trước đây, TS Lê Thu Hường là nhà khoa học chính trị làm việc cho Viện ISEAS-Yusof Ishak, Singapore, nghiên cứu tập trung vào mối liên hệ giữa chính trị trong nước và chính sách đối ngoại của Việt Nam, chiến lược của Trung Quốc đối với Đông Nam Á, và phản ứng của Đông Nam Á đối với cạnh tranh quyền lực lớn Trung-Mỹ. Có nhiều phân tích và bình luận tại Brookings, CSIS CogitAsia, PacNet, Nikkei Asian Review, Japan Times, Diễn đàn Đông Á, Diplomat, e-IR, New Mandala, Asia Sentinel... Là một thành viên (fellow) của Chương trình các nhà lãnh đạo Đông Nam Á của IISS Shangri-La Dialogue năm 2016. [Nguồn: từ CV của TS Lê Thu Hường trên nhiều trang tin khác nhau]

**) AMTI (Asia Maritime Transparency Initiative, Sáng kiến minh bạch hàng hải châu Á): Tổ chức thuộc Trung tâm nghiên cứu quốc tế và chiến lược (CSIS, Center for Strategic and International Studies, một think-tank hàng đầu của Mỹ, nơi TBT Nguyễn Phú Trọng đã tới thuyết trình trong chuyến thăm Mỹ 2015). AMTI có hệ thống lọc và kiểm tra tin tức nhiều tầng, chuyên đăng tải các thông tin liên quan tới các biển và các tuyến hàng hải Đông Á (bao gồm cả biển Hoa Đông và Biển Đông), phân tích và trao đổi chính sách về các vấn đề an ninh hàng hải ở châu Á với mục đích thúc đẩy tính minh bạch ở Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương nhằm can gián các hành vi quyết đoán và xung đột, tạo cơ hội hợp tác và xây dựng lòng tin. [Nguồn: Tự giới thiệu của AMTI]