Nguồn: talawas vào các ngày 10, 12, 20, 22/12/2007

 

 

 

Nhà văn Việt Nam:
Đổi mới và Hội nhập

 

Tô Nhuận Vỹ

 

(Đề tài tham gia chương trình nghiên cứu của William Joiner Center
 Đại học Massachusetts, Hoa Kỳ 2005 – 2007)

 

 

 

Văn học Việt Nam có vị trí cao trong xã hội và trong lòng người đọc ở vào thời gian chiến tranh. Sau ngày đất nước thống nhất (1975), có lúc nó đã đi đầu trong công cuộc đổi mới. Nhưng nó không tiếp tục bước đi liền mạch cao cả đó và trong tình hình xã hội đang buộc phải chuyển mạnh với xu thế toàn cầu hoá hiện nay, nó đang đứng trước thách thức lớn buộc phải đổi mới mạnh mẽ, nếu không muốn tụt hậu.

Bài viết này của chúng tôi cố gắng có một cái nhìn khái quát, dù mới chỉ là sơ bộ, những vấn đề của xã hội và của chính văn học trong hơn 30 năm qua liên quan tới hai nhiệm vụ mà theo chúng tôi là hàng đầu của nhà văn hiện nay là: 1- Tự do cho sáng tác và dân chủ hoá hoạt động văn học; 2- Góp phần vào hoà hợp, hoà giải dân tộc.

Tôi không đặt ra cho mình yêu cầu nghiên cứu này phải theo một thể loại nào nhất định mà tự cho phép mình một chút "tuỳ tiện" - khi chính luận, khi hồi ký, lúc tường thuật... - nếu thể loại đó hợp với nội dung mà tôi đề cập. Tôi cũng không tự giao cho mình trách nhiệm quá sức là nếu nói đến ai thì "nói cho trọn" và đề cập tới sự kiện nào thì trình bày cho đầy đủ mà chỉ hạn chế liên quan trong phạm vi nhỏ bé của mình chạm tới. Có thể với ai đã quen với logic, với sự chặt chẽ của một nghiên cứu, sẽ khó chịu với sự tản mạn, ít gắn kết đó. Xin một sự thông cảm cho "nội công chân khí" hạn chế của người viết.


1. Thực trạng của đất nước

Hai nội dung quan trọng mà Việt Nam phải giải quyết sau chiến tranh là phát huy nội lực dân tộc và dân chủ đất nước. Để giải quyết hai nội dung này, Việt Nam đã phải vượt qua những thách thức to lớn tưởng chừng không thể vượt qua được.

Muốn phát huy được nội lực dân tộc, trước hết phải thực hiện được truyền thống lớn nhất, đáng tự hào nhất của Việt Nam là sự đoàn kết, sự đùm bọc nhau của cộng đồng dân tộc qua hàng ngàn năm để giữ lấy cương vực và văn hoá. Nhưng sau năm 1975, truyền thống này đứng trước ba thách thức lớn, nói cách khác là phải giải quyết ba tồn tại lớn mới có thể nói tới sự thống nhất đất nước (trong thực tế nhiều người cho rằng đất nước mới chỉ “nhất thống”):

·       Khoảng hơn 6 triệu người, trực tiếp hoặc gián tiếp, liên quan tới quân Mỹ và chính quyền Sài Gòn (binh lính, sĩ quan hoặc nhân viên chính quyền và gia đình) với bộ phận hàng chục triệu người, đã trực tiếp hoặc gián tiếp, tham gia kháng chiến chống Mỹ (một “quốc gia” trong một quốc gia).

·       Các tôn giáo với chính quyền và những người không theo tôn giáo nào cũng như hàng loạt vấn đề đặt ra gay gắt về truyền thống, về dân tộc của các sắc dân thiểu số.

·       Vấn đề miền Bắc và miền Nam (cơ chế, trình độ kinh tế, văn hoá xã hội khác nhau).

Vấn đề “bản sắc”, “truyền thống” vấp ngay và buộc phải giải quyết ngay những trở lực ghê gớm đó, yêu cầu sai số là nhỏ nhất, ngay từ sau chiến tranh. Tiếc thay, những sai số là quá lớn.

Về đối ngoại, ngay sau năm 1975, “tinh hoa” mà Việt Nam cần học, cần có ngay không chậm trễ (bên cạnh lĩnh vực kinh tế phải giải phóng ngay sức sản xuất, sự năng động sáng tạo của các hình thức kinh tế vốn bị cấm kỵ hoặc đã xơ cứng trước đây bởi đã đi ngược các quy luật tiên tiến quá lâu) là việc thiết lập nội dung dân chủ trong các hoạt động của xã hội, trong đó có văn hoá, văn học nghệ thuật (thực ra việc tiến hành cải cách kinh tế cơ bản cũng là việc thiết lập nội dung dân chủ trong lĩnh vực này). Nhưng phải nói rằng, truyền thống dân chủ vốn có rất ít hoặc không có trong truyền thống của Việt Nam và Trung Hoa đô hộ. Nhưng đây lại là vấn đề rất phức tạp và nhạy cảm nên chỉ mới “chạm” tới nó đã bị “nổ bùng” tức khắc, bị phản ứng quyết liệt, thậm chí bị chụp mũ là tư tưởng”phản động”, là “tiếp tay cho kẻ thù”. Lý giải cho phản ứng này, cần có một cái nhìn khách quan và lịch sử. Một trong những oái oăm của lịch sử là các thể chế dân chủ tiến bộ mà chúng ta cần rút tỉa để học hỏi, nhiều khi lại ở ngay các nước vốn là cựu thù như Pháp, Nhật, Mỹ… Quê hương của Cách mạng Tư sản, của Thế kỷ Ánh sáng lại là kẻ đã chia nát Đông Dương và Việt Nam thành các mảnh nhỏ để dễ bề cai trị, đã thực hiện một chính sách ngu dân toàn diện trên toàn cõi Việt Nam và chính họ đã ra sức vun đắp, níu kéo chế độ phong kiến để phục vụ cho chính sách thuộc địa của mình. Đất nước đã quyết học phương Tây ánh sáng để Minh Trị lại là kẻ đã giết chết hơn hai triệu ngườì trong nạn đói khủng khiếp năm Ất Dậu. Đất nước mà chủ tịch Hồ Chí Minh đã kêu gọi sự văn minh dân chủ và sự cao cả bằng chính việc lấy cái hồn của Hiến pháp thời 13 bang làm câu mở đầu Tuyên ngôn Độc lập của mình, lại đem hàng triệu tấn bom ném xuống đê điều, bệnh viện, trường học Việt Nam! Đó chính là bi kịch của các cường quốc văn minh và bi kịch phải gánh chịu của dân tộc Việt Nam. Chính vì thế, trong cảnh bị đẩy vào chân tường, người Việt Nam phản ứng bằng cả những hành động và quan niệm cực đoan nhất. Vậy mới có câu “ta về ta tắm ao ta, dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn.” Mới có chuyện cổ xuý việc dùng nước tro thay xà phòng. Mới có chuyện tẩy chay váy đầm. Và rồi hễ cứ động tới dân chủ, đến tự do, đến “nhân vật thân phận”… thì thảy đều bị chụp cho cái mũ “vọng ngoại”, “tư tưởng phản động”…

Từ phía nội bộ đất nước, những mặc cảm tội lỗi lẫn thói kiêu binh chiến thắng, những cay cú đẩy tới hận thù của kẻ thua trận lẫn một số chính sách sai lầm không được lòng dân của người vừa chiến thắng, sự hụt hẫng trong đời sống các đô thị miền Nam lẫn sự áp đặt những chính sách cứng nhắc xây dựng chủ nghĩa xã hội theo mô hình Liên Xô từ miền Bắc chưa đổi mới… đã gần như “hợp sức lại” đưa cả đất nước chìm vào trong cảnh đói kém đau đớn ngay sau chiến thắng và đẩy cả hàng triệu người phải vượt ra nước ngoài, tình hình mà Gabriel Kolko gọi là “Thắng trong chiến tranh mà bại trong hoà bình” [1] . Và từ nước ngoài, một số “ngườì Việt căm hận”, được sự tổ chức, chỉ huy và nuôi dưỡng của không ít thế lực chống Việt Nam một cách thiển cận, liên tiếp “chuyển lửa về quê hương” để mong đánh sập chế độ trong một thời hạn ngắn nhất, gây nên những căng thẳng về an ninh triền miên cho Việt Nam vào lúc thế và lực mong manh nhất trong suốt mấy chục năm trở lại (mọi nguồn viện trợ nuôi sống cả xã hội suốt cuộc chiến tranh nay bị cắt cụt, nạn đói cận kề, lính Khơ-me Đỏ và tiếp đến là quân Trung Quốc tràn qua biên giới…). Chính họ đã “tiếp sức” cho lực lượng bảo thủ vốn còn rất mạnh trong nội bộ Việt Nam có “lý do chính đáng” để đưa ra những chính sách cứng rắn, quyết liệt mà bình thường chắc không một chính phủ nào muốn thực thi nhằm ưu tiên tối đa cho việc giữ vững nền chính trị, bất chấp chính sách ấy nhiều lúc “đánh” vào chính những người vốn tâm huyết nhất trong nước và cả trong cộng đồng người Việt ở ngoài nước (Có người vừa bị xem là “Việt cộng nằm vùng” ở hải ngoại vừa bị nghi ngờ là ”nhân viên CIA” ở ngay tại quê hương!).

Khát vọng cất cánh, khát vọng trong vòng vài ba chục năm trở thành một con hổ, một con rồng châu Á của cả một dân tộc, ngay cả trong những ngày tháng khó khăn nhất, vẫn khôn nguôi trong lòng không ít lãnh đạo, trí thức và người dân. Họ hiểu rằng, việc tất yếu không thể không bắt đầu từ phát huy nội lực của mỗi cá nhân con người, là tinh thần duy tân, là tinh thần dân chủ trong tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội, văn hoá, văn nghệ…, tinh thần mà Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Nguyễn Ái Quốc đã không tìm thấy đủ ở trong nước, không thấy ở nghìn năm Trung Hoa đô hộ, mà phải lặn lội nghìn trùng qua học tận Pháp, Mỹ, Nhật… Cơ chế tập trung dân chủ đã có lúc là liều thuốc bổ cho công nghiệp hoá tại Liên Xô và Trung Quốc, giúp họ chiến thắng thù trong giặc ngoài trong một giai đoạn nhất định. Khi còn là anh em đồng chí cùng ý thức hệ, cùng phe xã hội chủ nghĩa với họ, Việt Nam cũng đã học, vận dụng cơ chế đó trong chiến tranh. Nay thì sự tập trung cực kỳ đó (thường “quên” mất chữ Dân chủ) đã trở trái trói chặt cả nền kinh tế và xã hội Việt Nam vào lúc nó cần “cởi trói” nhất. Tự do cá nhân, tư hữu… là những khái niệm đồng nghĩa với tội lỗi. Khi cánh cửa Đổi mới vừa mở ra (trong đó văn học và báo chí đóng góp hàng đầu) thì báo động “ruồi muỗi, mùi hôi thối bay vào nhà quá nhiều!” vang lên! Đó là tiếng “ kêu cứu” phản kích của những phần tử bảo thủ và yếu bóng vía vốn dị ứng với bất cứ sự thay đổi nào, đã phóng đại lên, đã “quá mù ra mưa” những hiện tượng tiêu cực khó tránh về lối sống chỉ biết mình, về chủ nghĩa thực dụng, về cuộc sống chỉ tôn trọng đồng tiền, về các tệ nạn xã hội, và xu hướng không ít tác phẩm Văn học nghệ thuật từ cực này chuyển qua cực kia, sự “thay đổi hốt hoảng” không phải là không có… Dĩ nhiên, những mặt trái đó sẽ “đồng hành” với tự do nhiều hơn cho cá nhân, đồng hành với làn sóng ào ạt nhập vào những kỹ thuật hiện đại, tiện nghi hiện đại, những quan hệ hiện đại…, đồng hành với mức sống vượt cao lên có lúc đến không ngờ ở một bộ phận không nhỏ dân cư. Đó là mặt trái của tấm huy chương,là “anh em song sinh” giữa luật pháp và tội phạm mà Dürrenmatt đã viết hàng trăm năm trước trong Một cái chết ngoạn mục.

Có một sự “tiếp sức” rất “nặng ký” cho sức ì và sự bảo thủ là “tấm gương tày liếp” chính là sự xáo trộn và tan nát mau chóng của Liên Xô và Đông Âu xã hội chủ nghĩa, trong thoáng chốc, đối với Việt Nam, từ “có tất cả” đã thành “không có chi cả”, tạo nên một nguy cơ đổ sập của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Với tất cả trở lực và “sự tiếp sức” đó, giải pháp “đóng sập cửa lại” cho an toàn đã được vội vã ưu tiên. Đó cũng là thực tế khiến khi người đứng đầu Đảng kêu gọi văn nghệ sĩ “tự cởi trói” lại vội vã “trói lại” ngay sau đó.

Nhưng cho dù với thực tế bảo thủ mạnh mẽ, với một sức ì lưu cữu hàng thế hệ, đứng trước thực tế bi thảm của đất nước, những đôi mắt còn sáng suốt và thái độ tôn trọng thực tế khách quan, một bộ phận không nhỏ trong hệ thống chính trị đã dũng cảm nói lên một sự thật: Đất nước đang đứng bên bờ vực thẳm, không đổi mới sẽ chết! Và một thực tế đã hiện ra: chỉ trong vòng hơn chục năm trở lại đây, hình ảnh Việt Nam đã khiến thế giới ngạc nhiên: nền kinh tế nhiều thành phần đã phát triển toàn diện, hội nhập nhanh chóng với thế giới phát triển, nơi diễn ra nhiều hội nghị quốc tế lớn, gia nhập WTO, ký kết Hiệp định Thương mại Việt-Mỹ, đóng vai trò quan trọng trong khối ASEAN, xuất khẩu gạo đứng thứ hai trên thế giới… Để có được những kết quả bước đầu đó, quả thật xã hội Việt Nam đã trải qua những cơn đau vật vã, giằng xé lớn.


2. Một giai đoạn oanh liệt của văn học Việt Nam

Những sự giằng xé, vật vã để đi lên đó của xã hội ảnh hưởng mạnh mẽ đến văn học, dĩ nhiên. Giai đoạn 1975-1995 đã để lại một dấu ấn thật đặc biệt, nhiều bài học rất có ý nghĩa có thể rút ra từ đây.

Tại Hội nghị Lý luận Phê bình văn nghệ ngày 22 tháng 7 năm 2004, lãnh đạo Ban Tư tưởng-Văn hoá của Đảng Cộng sản Việt Nam đã buộc phải công nhận một thực tế của văn học nghệ thuật Việt Nam: “Một số quan niệm cũ không còn phù hợp”, “những gì đã cũ và lỗi thời phải cương quyết vượt qua”. “một số nhà phê bình chỉ quen với những môtíp, mô hình cũ và dị ứng với những biểu hiện mới và lạ. Độ bao quát quá hẹp, nhiều “ẩn số” văn nghệ đứng ngoài tầm với của giới phê bình” [2]

Cũng cần nhìn lại vài ba chuyện “cũ và lỗi thời”, cũng chưa quá xa, để có một cái nhìn đúng mức về cái được và chưa được của nền Văn học thời gian qua.


“Vụ” Đề dẫn…

Đây là báo cáo của Đảng đoàn Hội Nhà văn Việt Nam do Nguyên Ngọc dự thảo và đọc tại Hội nghị đảng viên nhà văn toàn quốc cuối năm 1979, đánh giá tình hình văn học thời gian đã qua và bàn phương hướng sắp tới. Báo cáo khiêm tốn chỉ ghi là “Đề dẫn…” để các nhà văn đảng viên có cơ sở thảo luận, nhưng những nội dung mà nó đề cập tới mang tính chất bùng nổ. Cần nhắc lại tình hình xã hội Việt Nam thời gian này cực kỳ đen tối mà Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam đã báo động là “bên bờ vực thẳm”, “không đổi mới sẽ chết”: Khơ-me Đỏ quấy rối biên giới Tây-Nam, quân Trung Quốc tràn qua biên giới phía Bắc, nạn đói đe doạ toàn dân, lực lượng chống Việt nam trong và ngoài nước tổ chức nhiều hoạt động phá hoại…Việt Nam lâm vào thế “tứ phương thọ địch”. Trong hoàn cảnh như vậy, tung ra một bản báo cáo với những nhận định “chưa từng có” là một hành động dũng cảm phi thường. “Đề dẫn” nhận định gì?

“Trong văn học lồ lộ khá rõ là số phận chung của cả dân tộc, cả đất nước, nhưng số phận riêng của từng người, từng thành viên trong đội ngũ lớn đó thì còn khá sơ lược, giản đơn… do vậy tính hiên thực của văn học bị hạn chế”; “Ít lâu nay trong người đọc và trong chính cả người viết, có một số suy nghĩ hoặc một số dư luận khá phổ biến cho rằng từ một số năm gần đây, năm năm, bảy năm hay khoảng mười năm trở lại đây,văn học ta đã có sự dừng lại. Mỗi người diễn đạt sự suy nghĩ, lo lắng đó một cách khác nhau: có người nói văn học đang thụt lùi, có người lại gọi là “có tình trạng trì trệ”. Cũng có người cho rằng đang có khủng hoảng. Cũng có người bảo: một số năm gần đây ta vẫn có nhiều sách nhưng không có tác phẩm, vẫn có nhiều trận đánh nhưng là những trận tiêu hao không có trận đánh tiêu diệt”; “Phải chăng lúc này có tình trạng không ít phổ biến là người viết cứ viết mà không thực tin ở những điều mình viết ra.“Người là muối mà chính mình không mặn thì lấy gì để mà muối người”. Văn học, nói theo một cách nào đấy, là lòng tin. Không có lòng tin lớn thì không bao giờ có văn học lớn” [3] .

Ở vào những ngày tháng đó, bật ra khỏi miệng, hơn nữa lại viết ra giấy trắng mực đen, lại trong báo cáo tại một hội nghị quan trọng của Đảng, những câu chữ như “thụt lùi”, “trì trệ”, “khủng hoảng”, “không có lòng tin”… thì thật là động trời! Cũng phải nói rằng, những nội dung này lâu nay đã không còn là điều huý kỵ, thậm chí bình thường, trong sinh hoạt văn học và chính trị nhưng vào thời điểm ấy thì đó là những quả bom!

Lúc đó, những người như Nguyên Ngọc cũng đã lường trước sự tất yếu phải trả giá, và chính anh đã phải trả giá, bắt đầu bằng mất chức vụ chủ chốt trong Hội Nhà văn. Nhưng không vì “nguy cơ” đó mà đánh mất phẩm chất, là không dám nói lên sự thực, như những người cộng sản chân chính cũng có không ít trong Đảng lúc này. Trong một dịp nói chuyện thân tình gần đây với tôi, khi nhắc lại “vụ” Đề dẫn, anh Nguyên Ngọc bày tỏ sự ngưỡng mộ khí phách trung thực của ông Kim Ngọc, Bí thư Tỉnh uỷ Vĩnh Phúc trước Đổi mới. Ông có câu nói nổi tiếng về mô hình hợp tác xã lúc đó: “Làm chủ nghĩa xã hội trại lính thế này rồi đến cháo cũng không có mà húp!”

Dĩ nhiên ngoài lòng dũng cảm,những con người như Kim Ngọc, Nguyên Ngọc phải có tầm nhìn xa. Họ đã dám và là người đi trước.

“Mình nói ‘tập thể và cá nhân phải hài hoà’ mà ông Tố Hữu đã điên, nói là phủ nhận tư tưởng ‘Làm chủ tập thể’ - Nguyên Ngọc khẽ cười – “Nhưng ba năm sau ông ấy nói ‘kết hợp ba lợi ích’ (lợi ích của nhà nước, lợi ích tập thể, lợi ích cá nhân).”

Với những quan điểm bùng nổ như thế, với sự cổ xuý hãy đi sâu vào số phận của cá nhân con người chứ không thể bằng lòng với những nhân vật tập thể vô danh yếu đuối, với sự phê phán việc đề cao quá đáng truyện người thực việc thực…, tiếp đến là việc quyết định trao giải thưởng của Hội Nhà văn cho các tiểu thuyết Mảnh đất lắm người nhiều ma (Nguyễn Khắc Trường), Bến không chồng (Dương Hướng) và nhất là Nỗi buồn chiến tranh (Bảo Ninh)… và, cũng vào giai đoạn này, từ báo Văn nghệ (lúc này Nguyên Ngọc về làm Tổng biên tập) và sau đó là tạp chí Sông Hương, những truyện ngắn sắc sảo, đáo để của Nguyễn Huy Thiệp liên tiếp xuất hiện… Cộng tất cả lại, đã gây nên những cơn “bão giật”, “gió xoáy” trong đông đảo người đọc, trong nhiều giai tầng xã hội. Ý kiến khen và chê, mừng rỡ lẫn phê phán, đều được đẩy tới cao trào. Có thể cho đến bây giờ vẫn còn có người không đồng tình với các quan điểm của “Đề dẫn” và các tác phẩm của các tác giả trên đây, nhưng đã có một độ lùi đủ cho cả những độc giả khó tính nhất nhận ra rằng, “Đề dẫn” cũng như những tác giả bị đem ra “mổ xẻ” lúc đó, cháy bỏng ngọn lửa khát vọng Chân - Thiện - Mỹ, họ đòi quyền được cống hiến bằng tự do sáng tạo và cả quyền được sai lầm. Không những đó là quyền, là khát vọng, mà còn là quy luật không thể cưỡng lại của sự phát triển của mọi nền văn học. Đó là cống hiến to lớn của “Đề dẫn” và những người ủng hộ những quan điểm tân tiến của nó lúc đó cho nền văn học Việt Nam.


“Vụ” báo Văn nghệ

Phải nói ngay rằng, từ khi Nguyên Ngọc mất chức Bí thư Đảng đoàn Hội Nhà văn Việt Nam về làm Tổng biên tập thì báo Văn nghệ (trước đó do Đào Vũ làm quyền Tổng biên tập) từ chỗ “nợ nần tùm lum, lượng phát hành xuống dần đều đến mức không thể xuống hơn được nữa, chỉ còn vài ngàn số,không có tiền trả nợ nhà in và cuối cùng phải tự đóng cửa đến bốn số báo”, Nguyên Ngọc cho biết như thế, đã mau chóng trở thành tờ báo được độc giả chờ đón nhất trong nước, lượng phát hành vọt lên cao kỷ lục (120.000 bản). Dĩ nhiên nợ nần chóng vánh lùi vào dĩ vãng, đời sống của anh chị em trong toà soạn theo đà ấy mà cùng… được nhờ (Đi phát hành thêm)! Không phải Nguyên Ngọc và những người ủng hộ anh ở báo Văn nghệ lúc đó chạy theo những chuyện giật gân câu khách mà tạo nên được một khuôn mặt Văn nghệ hoàn toàn mới. Mà chính là họ đã tiếp tục, trên mặt báo, những khát vọng tư tuởng sáng tạo của mình đã hơn một lần bày tỏ trong “Đề dẫn”. Hàng loạt tác phẩm “kinh thiên động địa” (nếu xuất hiện bây giờ chắc là bình thường hơn nhưng ở thời điểm ấy thì không thể dùng cụm từ nào khác) đến với độc giả từ Văn Nghệ: “Tướng về hưu” (Nguyễn Huy Thiệp), “Cái đêm hôm ấy đêm gì” (Phùng Gia Lộc), “Vua lốp” (Trần Huy Quang)… Một phần thực tế tang thương của đất nước mà chính Đảng chứ không phải ai khác cũng đã báo động là “đất nước đứng bên bờ vực thẳm” đã được các nhà văn tài ba và tâm huyết vạch ra một cách sống động hơn, đau đớn hơn và có sức thuyết phục hơn: đất nước mà hàng triệu người con đã đổ xương máu để giành lấy độc lập và thống nhất, đất nước ấy đang đầy rẫy bất công và áp bức, con người có khi sống như một thằng tù, sống không bằng một con chó! Người đọc ngỡ ngàng, uất hận và tự vấn, tự kiểm nghiệm thực tế quanh mình… để rồi họ chỉ có thể nhận ra một điều là, không đổi mới, đất nước sẽ chết!

Góp phần thức tỉnh và thúc giục hành động cương quyết ủng hộ Đổi mới (đối với toàn xã hội và riêng với văn học) là đóng góp vô cùng ý nghĩa của báo Văn nghệ giai đoạn này.

Tôi ủng hộ và khâm phục những người dám đổi mới, dám đi trước như Nguyên Ngọc (dĩ nhiên không chỉ có một mình anh). Điều tâm huyết đó tôi đã thể hiện trong thời gian làm Tổng biên tập tạp chí Sông Hương.


“Vụ” Sông Hương

Sông Hương là tạp chí văn học nghệ thuật và văn hoá của Hội Văn học Nghệ thuật (VHNT) tỉnh Bình Trị Thiên. Sau khi tách thành ba tỉnh thì nó là tạp chí của Hội VHNT tỉnh Thừa Thiên -Huế. Từ khi ra đời 1983 đến 1985, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm làm Tổng biên tập. Sau đó, cho đến 1990, tôi thay anh Điềm (Nguyễn Khắc Phê làm Phó Tổng biên tập, Thái Ngọc San làm Thư ký toà soạn). Sông Hương chỉ là một tạp chí của văn nghệ sĩ một tỉnh nhưng không một ai trong Ban biên tập lại quan niệm rằng những vấn đề mà nó quan tâm chỉ được khoanh vùng trong một diện tích nhỏ bé với số dân trên dưới một triệu người. Lúc tôi làm thì “vụ” báo Văn nghệ đã căn bản “giải quyết” xong, anh Nguyên Ngọc thôi làm Tổng biên tập, về Hội Nhà văn làm Trưởng ban sáng tác và tại đây, anh lại “chủ trì gây sự” khi cương quyết trao giải thưởng cho Nỗi buồn chiến tranh (Bảo Ninh). Một phần cũng vì Nguyên Ngọc không còn làm, xu hướng của báo Văn nghệ đã khác, nên không ít tác giả vừa gắn bó với Văn nghệ đã chuyển qua gửi bài cho chúng tôi. Tại lễ kỷ niệm năm năm ra số đầu tiên (6/1988), với sự có mặt của cả khách nước ngoài mà chúng tôi đã “cả gan” tự mình trực tiếp mời là nhà báo nữ Irina Zisman của Đài phát thanh Moskva, Anatoli, Tổng biên tập tạp chí Nhô-man, tạp chí của Hội Nhà văn Belarussia kết nghĩa với Sông Hương và các ông Võ Quang Yến, Lê Huy Cận, Chủ tịch và Tổng thư ký của Hội người yêu Huế tại Pháp, cơ quan giúp phát hành Sông Hương tại Pháp và Tây Âu, chúng tôi đã khẳng định, Sông Hương đã và sẽ làm tốt và tốt hơn nữa phương châm “Cái cũ phải sâu, cái mới phải mạnh mẽ và nhìn ra thế giới”.

Nhiều bài nghiên cứu và tác phẩm văn nghệ đăng tải trên Sông Hương đã được độc giả đón nhận nhiệt liệt và, dĩ nhiên, cả sự chú ý đặc biệt của các nhà chức trách. Đó là các bài về tôn giáo của Nguyễn Khắc Viện; về kinh tế thời nhà Nguyễn của Trần Quốc Vượng; sự xuất hiện lại lần đầu tiên cái tên Phùng Quán sau một thời gian dài “năn nỉ” tác giả, sự có mặt của Văn Cao, Nguyễn Tuân, các bài phỏng vấn Hoàng Cầm, Trần Dần, Nguyễn Đình Thi; cuộc gặp mặt với Nguyên Ngọc lúc việc xử “vụ” báo Văn nghệ đang diễn ra; nhạc phẩm “Huyền thoại mẹ” (Trịnh Công Sơn); các bài thơ “Người đàn ông 43 tuổi” (Trần Vàng Sao), “Nhìn từ xa… tổ quốc” (Nguyễn Duy), các bài bút ký “Luận chứng những tâm hồn đa cảm”, “Tiếng gõ cửa cuộc đời” (Nguyễn Quang Hà)… phản ánh tâm trạng đau đớn, xót xa, và phẫn uất của những con người đã từng cống hiến tuổi trẻ, máu xương của mình cho đất nước, nay phải chứng kiến một cuộc sống cơ cực, không công bằng và mất dân chủ đang diễn ra khắp nơi. Tiếp đến các truyện ngắn và cả vở kịch đầu tiên xuất hiện tại Việt Nam của Nguyễn Huy Thiệp (“Cún”, “Quỷ ở với người”, “Nguyễn Thái Học”) truyện ngắn “Người đoán mộng giỏi nhất trần gian” với phong cách lạ của cây bút nữ độc đáo Phạm Thị Hoài. Đặc biệt, muốn góp phần thúc đẩy căn bản sự phát triển của văn học nước nhà, nhân trước Đại hội Hội Nhà văn Việt Nam, chúng tôi tổ chức cuộc trao đổi, tranh luận về mối quan hệ giữa chính trị và văn nghệ, vấn đề mà chúng tôi cho rằng có tính quyết định nhất đối với việc đổi mới hay không đổi mới văn học Việt Nam hiện tại. Sông Hương đã cho đăng loạt bài có tính chất khởi phát và mạnh mẽ chủ kiến Đổi mới như “Về một phương diện của quan hệ giữa văn nghệ và chính trị” (Lại Nguyên Ân), “Viết như một phép ứng xử” (Phạm Thị Hoài), “Đoàn kết thực sự, dân chủ thực sự, đổi mới thực sự” (Nguyễn Đăng Mạnh), “Chính trị và văn nghệ, đổi mới hay không đổi mới” (Lữ Phương), “Cái hèn của người cầm bút” (Phạm Xuân Nguyên), “Biện chứng và nguỵ biện trong tư duy đổi mới” (Hà Sĩ Phu), “Góp phần tổng quát vấn đề chính trị và văn nghệ” (Trần Độ)…, trong đó, quan điểm của Lại Nguyên Ân đã góp phần bùng nổ thêm sự phản ứng quyết liệt đã có sẵn đối với Sông Hương khi anh viết:

“Văn nghệ chính thống, quan phương (official), văn nghệ được bao cấp bởi bộ máy quan liêu, diễn đạt trực tiếp tiếng nói, quan điểm, ý chí, xu hướng của người cầm quyền.Văn nghệ hợp pháp là văn nghệ không bị nhà nước nghiêm cấm, ngoài ra, nó có thể không hoàn toàn phục tùng, phục vụ cho lợi ích của Nhà nước ấy, thậm chí nó lại tạo ra cơ sở ý thức mới nhằm đưa tới việc cải cách hoặc Cách mạng, thay đổi chế độ hiện hành” [4] .

Ngay sau đó, trên trang nhất tạp chí Cộng sản, tạp chí lý luận chính thức của Đảng Cộng sản Việt Nam đăng bài “Quan hệ giữa văn nghệ và chính trị không phải là quan hệ giữa hai “bá quyền” của Lê Xuân Vũ, Vụ trưởng Vụ Văn hoá-Văn nghệ của tạp chí và Trần Phú Lộc có bài “Đôi lời nhân đọc Sông Hương số 36” trên Văn nghệ đập lại Lữ Phương và Lại Nguyên Ân là “không hiểu gì chủ nghĩa Marx” “Đó là thâm ý muốn tách văn nghệ ra khỏi sự lãnh đạo của Đảng”, những quy chụp mà Nguyễn Đăng Mạnh phê phán gay gắt là“Đẩy đối phương vào chỗ chết” [5] . Sông Hương cũng buộc phải lên tiếng tự bảo vệ mình trước sự quy chụp nặng nề công bố trên các phương tiện truyền thông lúc này:

“Đó là cuộc tranh luận tránh vấn đề cốt lõi mà chúng tôi đề cập, đó là cách cắt một câu thơ ra khỏi một bài thơ để bình luận, đó là cách chỉ chọn một câu, thậm chí ½ câu, trong một bài và bài đó trong cả mảng bài thống nhất, lôi nó ra để chẻ nhỏ rồi lại thổi phồng nó lên theo sự suy diễn của mình và ném vào vấn đề đã được thổi phồng ấy những lời đe doạ, chụp những cái mũ thật đáng kinh sợ, cố tình không hiểu những vấn đề lớn và rõ ràng mà chúng tôi đề xuất, tưởng chừng cứ cái đà ấy thì cả một toà báo, và những người ủng hộ, đều là bọn phản động đội lốt, và chỉ có người viết mới là người quý trọng, trung thành với Đảng và mến yêu đất nước này” [6]

Cuộc tranh luận, cho dù chưa đi đến cùng của vấn đề đặt ra vì tạp chí liên tục bị “tạm” ngưng xuất bản để “kiểm điểm” và sau đó Tổng biên tập bị cách chức, nhưng những nội dung mà Sông Hương đã đưa đến bạn đọc đã gióng lên tiếng chuông báo động về những nhận thức, quan điểm cũ kỹ đang là lực cản to lớn của hoạt động sáng tạo văn học nghệ thuật Việt Nam, cần phải vượt qua mới có thể có được những tác phẩm xứng đáng với đất nước và nhân dân.

Bên cạnh tờ tạp chí chính thức,chúng tôi chủ trương xin “giấy phép tạm thời” bên Sở Văn hoá Thông tin tỉnh để cho ra đời Tủ sách Sông Hương (vì dễ… qua hơn xin giấy phép chính thức của trung ương). Với Tủ sách này, chúng tôi đã cho ra mắt nhiều cuốn sách văn học có giá trị, nhưng cái giá phải trả không “rẻ” hơn tý nào so với “cái giá” phải trả của tờ tạp chí. Tôi muốn nhắc tới chuyện ra đời của ba cuốn sách Bài thơ thôn Vỹ, Nguyễn Huy Thiệp - Tác phẩm và dư luận, Tình yêu thời thổ tả.

Bài thơ thôn Vỹ là tuyển chọn những bài thơ hay viết về Huế trước1945, chủ yếu là tác phẩm của các nhà thơ tiền chiến. Cho dù phải lấy cớ “những bài thơ hay về Huế” để dễ lọt khi xin gíấy phép và vì vậy, Bài thơ thôn Vỹ đã tự hạn chế do bị “khoanh vùng”, nhưng đây là tuyển chọn thơ tiền chiến đầu tiên trên phạm vi miền Bắc từ sau 1945 và trên cả nước sau 1975, với nhiều tác giả như Anh Thơ, Chế Lan Viên, Thế Lữ, Phan Bội Châu, Huy Cận, Xuân Diệu, Tố Hữu, Lưu Trọng Lư, Thanh Tịnh, Hồ Dzếnh, Trần Tuấn Khải, Henri Guitier, Mai Đình, Manh Manh, Nam Trân, Nguyễn Nhược Pháp, Mộng Tuyết, Phạm Hầu, Quách Tấn, Thái Can, Ưng Bình… Cũng để tránh bớt tai vạ, chúng tôi vận động anh Chế Lan Viên viết bài tựa cho tập sách. Anh Chế là người từng có những ý kiến phê phán thơ tiền chiến trước đó, lại là người rất được lãnh đạo tin cậy, là lý do rất quan trọng để cơ quan cấp phép dễ thuận lòng. Vả lại, đây là “Những bài thơ hay viết về Huế trước 1945”, trong đó có cả bài của Tố Hữu, Thanh Tịnh, Chế Lan Viên, làm sao anh “nghi ngờ” được? Nhưng hoá ra, anh Chế biết “mẹo” của chúng tôi, khi ngay trong bài tựa, anh đã nói toẹt ra cái mẹo này của Sông Hương. Nhưng anh vẫn viết vì thương anh em Huế. Và anh cũng còn phải chứng minh anh vẫn còn là anh nữa chứ! Chúng tôi tin chắc rằng cuốn sách sẽ được độc giả chào đón nhiệt liệt nên in tới 40.000 bản và trong một thời gian rất ngắn đã không còn một cuốn nào tại toà soạn!

Đối với Nguyễn Huy Thiệp thì cũng phức tạp không kém. Lúc này trên các báo liên tiếp đăng tải các bài phê phán gay gắt các truyện ngắn của anh. Tại Huế, chúng tôi lại cho in trên Sông Hương cả “Cún”, “Quỷ ở với người”, “Nguyễn Thái Học” khiến các người có trách nhiệm “nổi xung” hơn. Ở đây, tôi phải nói thêm một chút về Nguyễn Khoa Điềm trong trường hợp Nguyễn Huy Thiệp. Lúc này, Điềm đang là Trưởng ban Tuyên huấn tỉnh. Trong suốt quá trình “xử trí” vụ Sông Hương, thái độ của Nguyễn Khoa Điềm không tương xứng với trình độ và sự hiểu biết của anh (việc này chúng tôi sẽ nói ở phần sau). Khi những truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp mới xuất hiện, giữa lúc nhiều ý kiến phê phán tung lên các mặt báo, Điềm không bày tỏ quan điểm, nhưng trong một dịp trao đổi riêng với tôi, Điềm cho rằng: “Truyện của Thiệp ở trên một mặt bằng khác hẳn với truyện ngắn Việt Nam hiện nay”. Tôi nhất trí với nhận định này. Tuy có một nhận định xác đáng như vậy nhưng nếu chúng tôi xin giấy phép in ở Bình Trị Thiên thì chắc rằng Điềm sẽ không đồng ý. Vì vậy, chúng tôi đã cùng bàn với anh Trương Văn Khuê, Giám đốc Nhà xuất bản Trẻ thành phố Hồ Chí Minh xuất bản cuốn Nguyễn Huy Thiệp – Tác phẩm và dư luận (tôi chịu trách nhiệm về nội dung, anh Khuê chịu trách nhiệm về giấy phép, tiền bạc và in ấn. Việc phát hành hai bên cùng chịu). Chúng tôi tập họp những tác phẩm tiêu biểu nhất của Thiệp, kể cả kịch. Và để tránh bớt tai vạ, chúng tôi đã dùng cả bài khen lẫn bài chê trong phần “Dư luận” (dĩ nhiên phần khen trội hơn). Cũng lại đúng như dự đoán của chúng tôi, chỉ trong vòng một tuần, tập sách in 8.000 bản đã hết vèo! Gần đây, tôi có đọc một bài viết của một tác giả có uy tín nói ông từng cầm bản thảo đi vận động để xuất bản tập truyện đầu tiên của Thiệp tại thành phố Hồ Chí Minh. Tôi khẳng định rằng, trước lúc tập Nguyễn Huy Thiệp – Tác phẩm và dư luận ra mắt bạn đọc, trên thị trường sách của Việt Nam, chưa từng có tập truyện ngắn nào của Thiệp. (Cuốn này được NXB Hông Lĩnh tái bản ở Cali năm 1991).

Còn chuyện cuốn Tình yêu thời thổ tả của G.Marquez thì đúng là bi kịch.

Khi biết Nguyễn Trung Đức vừa dịch xong cuốn Tình yêu thời thổ tả của Gabriel García Marquez, chúng tôi liên hệ ngay để xin được in. Nếu gửi nhà xuất bản khác thì chắc chắn anh sẽ có số nhuận bút dịch giả cao hơn nhiều (vì trước đó anh đã dịch và cho xuất bản cuốn Trăm năm cô đơn rất thành công). Nhuận bút dịch của tạp chí Sông Hương còn mang tính chất ủng hộ định hướng nội dung hoạt động của Sông Hương, nhiều tác giả nổi tiếng gửi bài cho Sông Hương lúc này đều bày tỏ thái độ đó. Nguyễn Trung Đức gửi ngay cho chúng tôi bản dịch mà anh ưu ái. Chúng tôi “lặng lẽ” lấy giấy phép của Sở Văn hoá Thông tin rồi lại vào Thành phố Hồ Chí Minh tìm đối tác để phối hợp xuất bản vì để in cuốn này cần một số vốn lớn mà chúng tôi thì còn nghèo. Mặt khác, lúc này, trên báo chí Hà Nội và ngay tại Bình Trị Thiên đã xuất hiện một số bài phê phán xu hướng cũng như một số sáng tác và lý luận phê bình được đăng tải trên Sông Hương, còn tại Thành phố Hồ Chí Minh thì không khí báo chí cởi mở hơn, thậm chí có những tờ báo công khai có bài bảo vệ Sông Hương như Sài Gòn Giải phóng, Tuổi trẻ, Thanh niên…

Sông Hương có văn phòng đại diện tại 44 Lý Tự Trọng, Quận 1 (nhà anh chị Nguyễn Thanh Phương cho mượn), đối diện với cơ quan thường trú báo Quân đội Nhân dân tại phía Nam. Vì ở gần nhau, chúng tôi quen anh Phạm Quốc Toàn, phóng viên thường trú của báo này và sau đó anh vừa được điều về thay anh Trần Quang Huy làm Tổng biên tập báo Vũng Tàu - Côn Đảo. Chúng tôi đề nghị Sông Hương cùng báo Vũng Tàu - Côn Đảo phối hợp xuất bản cuốn Tình yêu thời thổ tả. Vốn là người ủng hộ sự đổi mới của Sông Hương và cũng mong đóng góp nhiều hơn cho xã hội, anh đồng ý ngay với đề nghị của tôi. Vũng Tàu – Côn Đảo lo toàn bộ giấy má, tiền bạc, Sông Hương lo nội dung, giấy phép. Sách được in tại Xí nghiệp in số 4. Hai bên cùng nhau phát hành khi in xong, lãi cùng hưởng, lỗ cùng chia. Nhưng, thật tội cho anh Toàn và báo Vũng Tàu - Côn Đảo, mới “dính” tới Sông Hương thì đã mang vạ! Tôi tin chắc là, nếu một cơ quan khác in Tình yêu thời thổ tả vào thời điểm đó thì “cơ quan chức năng” không thể bỗng dưng bịa ra cái lý do rất vớ vẩn là “có những đoạn có nội dung kích dục không thích hợp với thuần phong mỹ tục của Việt Nam” để đình chỉ việc in ấn một khi cuốn sách đã in xong phần ruột và bắt đầu in bìa. Toàn bộ nội dung vừa in xong bị Công an Thành phố Hồ Chí Minh niêm phong. Đó là họ nói với chúng tôi, và họ cũng chỉ làm theo lệnh của Bộ Văn hoá Thông tin, chứ cũng chẳng có văn bản nào viết công khai nội dung quyết định đó! Lúc ấy những bài báo phê phán các bài thơ “Người đàn ông 43 tuổi” (Trần Vàng Sao), “Nhìn từ xa… tổ quốc” (Nguyễn Duy), “Luận chứng những tâm hồn đa cảm” (Nguyễn Quang Hà), kịch và truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, các bài phê bình về loại văn học “phải đạo” của Hoàng Ngọc Hiến, Lại Nguyên Ân… đăng trên Sông Hương đang vào đoạn cao trào. Lời lẽ phê phán cũng không có mấy mới mẻ, vẫn là những câu chữ, những cái mũ cũ kỹ chụp lên đầu người bị phê phán: bôi đen cuộc sống tốt đẹp, làn gió độc thổi ngược vào xu thế cách mạng của đất nước… Những việc đó có lẽ là lý do chính dẫn đến việc đình chỉ việc in Tình yêu thời thổ tả, bởi một nhà văn được giải Nobel như Marquez, người vốn rất ủng hộ cuộc kháng chiến chống Mỹ của Việt Nam, là bạn thân của Fidel Castro - vị chủ tịch Cuba được nhiều người dân Việt Nam cực kỳ quý mến, lại cũng đang bị Mỹ “kỳ thị” không cấp visa vào Mỹ… có lẽ không phải là tác giả “có vấn đề”, cần phải cấm xuất bản. Vì thế, dù bất ngờ khi có lệnh đình chỉ in, tôi vẫn tin rằng họ hù doạ Sông Hương để muốn Sông Hương thay đổi “thái độ quá khích” trong các nội dung đăng tải thôi, thế nào cuốn sách rồi cũng được giải toả. Nhưng tôi đã nhầm! Làn sóng phê phán Sông Hương đã được đẩy lên quá cao đến mức quá đà rồi! Tại Bình Trị Thiên, bên cạnh việc tổ chức cho một số “cây bút” có tiếng trong xã hội và Đại học Huế viết bài phê phán, người ta còn tổ chức (hay bịa ra?) để có cả “Kiến nghị của 123 chị em tiểu thương chợ Đông Ba” lên án Sông Hương chống lại đường lối văn nghệ của Đảng, là phản động! Cùng lúc, Tình yêu thời thổ tả được lặng lẽ đem đi… xay bột!

Chúng tôi kể lại những “chuyện ngày xưa” của Sông Hương không phải để đay nghiến ai, để thanh minh hay “đánh bóng” Sông Hương, vì không ít người lúc đó hăng hái “đánh” Sông Hương bây giờ nhớ lại chợt “sao mình lúc đó ngớ ngẩn thế nhỉ?” Hoặc ngay chính Nguyễn Khoa Điềm, đã là một trong những người tham gia “xử” vụ Sông Hương, trong dịp Sông Hương kỷ niệm 20 năm ra số đầu tiên, lúc đó còn đang là Uỷ viên Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam, Trưởng ban Tư tưởng Văn hoá, đã không nhắc lại “sai lầm” của Sông Hương ngày ấy mà viết trong thư gửi về Huế “20 năm qua biết bao niềm vui và nỗi buồn cao cả”! [7] .

Nhớ lại chuyện “ngày xưa” là để nhắc tới những bệnh tật cũ phải đề phòng, đừng để nó tái phát. Mà bệnh tật cũ đâu đã hết trong cơ thể văn học Việt Nam, vì có bệnh đã thành mãn tính từ lâu mất rồi, lúc trái gió trở trời vẫn còn hành hạ khổ sở cơ thể văn học. Mà cũng đâu cần đợi đến lúc trái gió trở trời, như cái bệnh chụp mũ chính trị lên đầu không ít nhà văn nhà báo, vừa qua vẫn dăm ba tháng lại nổ bùng điếc tai một vụ. Hồi chúng tôi dự tính mở cuộc tranh luận về mối quan hệ giữa văn nghệ và chính trị, chúng tôi biết rằng Sông Hương sẽ chạm vào lãnh vực “nguy hiểm” nhất, nhưng đó chính là nội dung cần đổi mới nhất, cần đổi mới trước hết, có như vậy, văn nghệ mới có thể có khoảng không gian trong lành dành cho tự do sáng tạo nghệ thuật. Những quan niệm chính trị là thống soái, văn nghệ phải phục vụ chính trị… hiểu một cách xơ cứng, thô thiển đã tạo ra vô vàn tác giả và tác phẩm “dạ thưa” ,“vâng lời”. Cho mãi đến bây giờ, khi mà cả xã hội đã sống trong nền kinh tế nhiều thành phần và nhiều lãnh vực đã thay đổi tốt đẹp theo hướng này thì văn học vẫn còn bị trì kéo sống trong không khí “một thành phần” cũ xưa. Quan niệm “Các nhà chính trị được tự do sáng tác ra hiện thực còn các nhà văn phải tái tạo lại cái hiện thực mà các nhà chính trị sáng tác ra” [8] vẫn còn mới rợi đấy thôi. Hy vọng rằng, dĩ nhiên vẫn cứ phải hy vọng, không có nội dung cũ kỹ và lỗi thời nào quan trọng hơn cần phải vượt qua chính là các quan niệm xơ cứng, thô thiển mà chúng tôi đã phê phán trong cuộc tranh luận hơn hai mươi năm trước,nếu muốn đổi mới thực sự nền văn học của chúng ta.

Mặt khác, sau “vụ” báo Văn nghệ, việc giải quyết “vụ” Sông Hương thường làm rất kín (chủ yếu thông qua hệ thống Đảng và chỉ đạo… không văn bản của Bộ Văn hoá Thông tin), cố không gây ồn ào nên nhiều người không biết, hoặc không thật rõ, vì vậy, lúc chúng tôi “lâm nạn”, thâm chí đã có người trùm chăn hoặc chứng minh minh vô can, nhưng vừa qua lại có bài xa gần tự phong cho mình có công trong “vụ” Sông Hương!

Tôi cho rằng,hành động “xay bột” Tình yêu thời thổ tả và bịa ra kiến nghị của 123 chị em chợ Đông Ba là hai sự kiện thê thảm và khôi hài nhất của văn học và báo chí Việt Nam, từ năm 1975 đến nay. Còn việc tôi bị cách chức là việc chẳng có gì lạ.
 


[1]Gabriel Kolko, Anatomy of a War: Vietnam and Modern Historical Experience, New York, The New Press,1985
[2]Nguyễn Khoa Điềm, “Về tình hình phê bình văn học nghệ thuật những năm gần đây”, Văn nghệ số 37, ngày 11/9/2004
[3]Nguyên Ngọc, “Đề dẫn…”, bản gốc
[4]Lại Nguyên Ân,“Về một phương diện của quan hệ giữa văn nghệ và chính trị”, Sông Hương số 36
[5]Nguyễn Đăng Mạnh, “Đoàn kết thực sự,dân chủ thực sự, đổi mới thực sự”, Sông Hương số 37
[6]“Tình hình trước Đại hội nhà văn càng khiến chúng tôi lo ngại”, Sông Hương số 38
[7]Nguyễn Khoa Điềm, nguyên Tổng biên tập đầu tiên của Sông Hương, Thư gởi chúc mừng nhân kỷ niệm 20 năm xuất bản tạp chí Sông Hương số tháng 6/2003
[8]Đỗ Minh Tuấn, “Vì sao văn học ta chưa ‘ngang tầm thời đại’”, talawas ngày 05/5/2005

 

____________________________

 

 

3. Văn học trước thách thức tụt hậu

Trừ hai dạng người, một ở trong nước mà trình độ thuộc loại “bảo thủ một cách chân thành”, hoặc ước mơ cao nhất cũng chỉ là “cơm no áo ấm”, thường chỉ so sánh với những gì quanh mình mới “ngày hôm qua đây” thì thấy sự thay đổi của đất nước luôn luôn là tuyệt vời, và một ở ngoài nước, như đạo diễn Trần Văn Thuỷ bạn tôi đã viết, đối với họ “tình hình trong nước càng xấu càng tốt” [1] , vâng, trừ hai dạng người thiếu khả năng khách quan đó, thì ai có một cái nhìn bình tâm đều thấy Việt Nam đã không còn là Việt Nam của mươi năm trước. Báo điện tử Cali Today thuật lời đại sứ Mỹ tại Việt Nam Michael Marine: “… ông tin rằng Việt Nam ngày nay không phải là Việt Nam 30 năm trước hay 15 năm trước. Ngoại trừ trường hợp cứ khăng khăng không chịu chứng kiến những thay đổi đó, còn thì người ta sẽ phải thực sự nhìn nhận một Việt nam của ngày hôm nay” [2] .

Nhà thơ Nguyễn Bá Chung, chuyên gia nghiên cứu văn hoá Đông-Tây của Trung tâm Wiliam Joiner thuộc Đại học Massachusettes (Boston - Mỹ) nhận xét rằng, cho dù còn nhiều tồn tại nặng nề về dân chủ và định hướng phát triển, Việt Nam đã và đang có chuyển động theo hướng tích cực trong hai vấn đề theo anh là quan trọng nhất mà trong nước phải giải quyết, hai vấn đề cơ bản của một xã hội văn minh, đó là giáo dụctâm linh. Về giáo dục, dù chỉ mới bắt đầu nhận ra sự tụt hậu toàn diện, nhưng dư luận cho thấy gần như toàn xã hội đã nhận ra tình trạng tồi tệ này, đủ sức buộc những người có trách nhiệm không thể tiếp tục vô trách nhiệm bởi nó liên quan trực tiếp đến hàng loạt lĩnh vực quyết định sự hưng thịnh hay suy vong của đất nước. Về cuộc sống tâm linh, liên quan tới lĩnh vực đạo đức của toàn xã hội, dù rất chậm, nhưng cũng đã có chuyển động. Hai chuyến về thăm quê hương và thuyết giảng giáo lý, đặc biệt cuộc đại cầu siêu Trai đàn Chẩn tế ở Thành phố Hồ Chí Minh, Huế và Hà Nội của thiền sư Thích Nhất Hạnh và tăng thân Làng Mai là một biểu hiện hết sức có ý nghĩa của sự chuyển động tích cực theo hướng này và những hoạt động đó tiêu biểu cho khát khao hoà hợp dân tộc của mọi người lúc này.

Về văn học, nhà thơ Kevin Bowen, giám đốc Trung tâm William Joiner, Trung tâm đã có quan hệ với Hội Nhà văn và nhiều nhà văn tiêu biểu của Việt Nam trong hai chục năm qua, khi trả lời tôi về vấn đề dân chủ trong văn học Việt Nam, anh nói ngay: “Có dân chủ hơn thời kỳ 1988-1992 (thời kỳ mà anh cho rằng có những tác phẩm xuất sắc nhất sau năm 1975 - TNV), nhưng để có tác phẩm hay lại là chuyện khác!”

Nhưng trong sự đổi thay còn chừng mực đó, mươi năm trở lại đây, văn học Việt Nam bỗng như “phanh kít” lại, mà nhiều ngườì dè dặt hơn nói là “chững lại”. Dừng lại trong lúc chung quanh người ta đi tới thì gọi là tụt lại, là tụt hậu chứ còn gọi thế nào nữa. Tuy năm này năm kia vẫn có những tập sách đọc được nhưng không có những cuộc tranh luận thẳng vào những vấn đề gay gắt nhất của đời sống văn học, những tác giả và tác phẩm có tính “khai phóng” tác động mạnh mẽ đến khát vọng vươn lên của xã hội như hơn mười năm trước. Không nhìn thẳng vào sự thật này thì sự tụt hậu sẽ còn tụt dài và tụt xa nữa. Vài dẫn chứng cho nhận định này của chúng tôi.

Về chất lượng tác phẩm, trước Đại hội Nhà văn lần thứ 7 vừa qua, Nguyễn Duy đã phản ảnh đúng suy nghĩ của nhiều người khi nói:

“Chúng ta đang có một thực tế văn chương rất mâu thuẫn. Những cái cũ kỹ giáo điều thì vẫn cũ kỹ giáo điều như cũ, người đọc chán rồi, không muốn tiếp nhận nữa. Mặt khác, lại xuất hiện những cái xa lạ, những cái u ơ, ú ớ, ù ờ thần kinh, người đọc không thể tiếp nhận nổi. Cả hai thái cực ấy làm người đọc vừa chán ngán, vừa lo ngại. Người ta ít quan tâm đến văn học đến mức tôi có cảm giác người ta chả cần nhà văn nữa” [3] .

Trong tổng kết Văn học 5 năm đầu thế kỷ” của Ban chấp hành Hội Nhà văn trình bày tại Đại hội, đã phải công nhận một thực trạng“Văn học ta tiếp tục có những tác phẩm hay nhưng đó là những cái hay theo những kiểu dạng đã từng có, đã quen thuộc, còn ít những cái hay chưa từng có, khác thường,có tính mở đường”, trong lúc “thị trường văn học tiếp tục bị thu hẹp, văn hoá đọc chưa lấy lại đà phát triển của nó trước sự lên ngôi của văn hoá nghe nhìn” và chính thực trạng đó khiến xã hội mất lòng tin vào nhà văn. “Nhà văn vốn đã cô đơn, ngày nay càng cảm thấy cô đơn hơn trước dòng thác của các cuộc tìm kiếm lợi ích.” Trong một cuộc trao đổi với tôi trước Đại hội Nhà văn lần thứ 7, nhà thơ Hữu Thỉnh, Tổng thư ký Hội khoá 6 (và nay là Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam khoá 7) đã nói một cách khẳng định và văn hoa về chất lượng hạn chế của tác phẩm văn học thời gian qua là “độ kết tinh chậm” và nhà văn đang “thiếu khát vọng sáng tạo” để vượt qua các trở lực khách quan và trở lực trong chính mình.

Tôi đồng ý với Hữu Thỉnh là thiếu khát vọng cao cả về Chân-Thiện-Mỹ thì nhà văn không thể có được tác phẩm hay về con người. Nhưng đó chỉ mới nói về yếu tố chủ quan của nhà văn. Đó là yếu tố cần nhưng chưa đủ. Yêu cầu khách quan cần thiết, quan trọng nhất đối với nhà văn, tôi tin rằng Hữu Thỉnh cũng hiểu như tôi, nhưng anh không nói tới, là dân chủ dành cho sáng tạo văn học đã thay đổi quá chậm, có thể nói là lĩnh vực thay đổi chậm nhất so với nhiều lĩnh vực đã thay đổi ở Việt Nam trong thời gian qua. Tưởng đã xa rồi cái thời còn ấu trĩ học theo Trung Quốc “chống phái hữu” khiến bao tài năng tâm huyết văn nghệ tan nát sự nghiệp và cuộc đời trong vụ Nhân văn-Giai phẩm, tưởng đã xa rồi cái thời mới chạm tới tự do sáng tạo và bày tỏ sự ủng hộ sáng tạo ở một số tác phẩm mới mà Nguyên Ngọc và chúng tôi đã bị cách chức, vậy mà mới bước vào thế kỷ XXI, đã có “vụ” Bùi Ngọc Tấn, “vụ” Nguyễn Khải, “vụ” Nguyễn Huy Thiệp cũng với những cái mũ từ nửa thế kỷ trước chụp xuống đầu nhà văn: bôi nhọ chế độ, bôi nhọ nhân dân…!

Trong một lần ngồi ăn sáng với Nguyễn Quang Sáng ở một nhà vườn trên đường Võ Thị Sáu, anh nói với tôi bằng cái giọng “rất Nam bộ” :

“Mày hỏi về dân chủ trong văn học hả? Theo tao, có tiến bộ. Ngày trước cho dù trong bụng rất thương nhưng không ai dám tới gần, có khi tránh mặt luôn, nếu thấy mấy cha Nhân văn-Giai phẩm. Bây giờ, sách của Bùi Ngọc Tấn vừa bị tịch thu, chả đang bị kêu lên gọi xuống, nhưng tới Đại hội Nhà văn, anh em vẫn xúm xít vui vẻ với chả, chẳng sợ ai ráo! Hoặc ngày trước báo Nhân dân đăng bài khen chê cuốn sách nào thì các báo lo mà có bài khen chê theo. Bây gìờ thì khác rồi: Mày là mày, tao là tao!” - Nguyễn Quang Sáng trầm ngâm, như chia sẻ những suy nghĩ của tôiNhưng chậm quá, quá chậm! Đến như cha Nguyễn Khải mà còn bị nhấc lên đặt xuống thì bao giờ mới có cởi mở, mới có dân chủ thực sự cho mọi nhà văn? Khi biết tao sẽ viết về Huỳnh Phú Sổ, ông Võ Văn Kiệt nói sao mày biết không? Ổng dặn ‘Viết cho kỹ nha. Đúng thì nói đúng, sai thì nói sai. Thua thì nói là thua, thắng thì nói là thắng, chứ chẳng lẽ cứ thắng hoài!’ Có nghĩa là sao? Chính ổng cũng ngán cái kiểu viết ta thì chỉ có thắng, địch chỉ có thua! Mày biết vì sao có những tay cựu chiến binh Mỹ viết về chiến tranh hay hơn nhiều anh em mình không? Nó THỰC và DÁM viết ."

Bùi Ngọc Tấn vừa có phát biểu nhân cuốn Rừng xưa xanh lá nhân tác phẩm này vừa được giải thưởng năm 2004 của Hội Nhà văn: “Được giải tôi rất vui. Niềm vui của tôi chủ yếu ở chỗ việc trao giải cho tôi thể hiện cái nhìn cởi mở hơn về nhân thân tác giả, sự công nhận những mảng đời sống khác của hiện thực” [4]

26 năm sau, đọc lại “Đề dẫn” vẫn thấy cái mới, cái mạnh của nó. Nó mới và mạnh so với chính báo cáo chính thức tại Đại hội Nhà văn lần thứ 7 vừa qua. Nó mạnh và mới bởi những vấn đề căn cốt nhất mà nó dũng cảm đề cập tới chính là vấn đề cốt tử của sự tồn tại và phát triển của nền văn học: tự do cho tìm tòi sáng tạo, phải “bảo hiểm”, động viên nhà văn phản ảnh những đau khổ của con người, lên án mạnh mẽ những quan niệm cũ kỹ đã trói cả một nền văn học trong nhiều năm tháng… Những điều đó được đề cập mờ nhạt, hoặc tránh né, trong báo cáo gần 30 năm sau.

Tổ chức của Hội Nhà văn vẫn giữ nguyên mô hình và hoạt động của 50 năm trước. Bình thường thì tổ chức nhà văn là tổ chức cần và có thể xã hội hoá mạnh và sớm nhất. Tuy nhiên, do đặc điểm phải tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc và tiến hành hai cuộc chiến tranh giành độc lập và thống nhất đất nước, Hội Nhà văn từ lâu đã là một thành viên của tổ chức cách mạng, nên việc “bao cấp” cho hoạt động của Hội là tất nhiên và bình thường. Nhưng, sau chiến tranh, việc duy trì nửa thế kỷ “bao cấp”, “bao cấp” từ biên chế, lương tiền, kính phí bình thường và các giải thưởng, cả tiền ăn ngủ bồi dưỡng lúc ngồi sáng tác, lo cho từ nhà cửa, xe cộ cho đến hệ thống chức quyền nhà văn, “lo” luôn cả chuyện ai vào Ban chấp hành, ai giữ ban này bệ nọ của Hội, đúng là “bao trọn gói”… Lâu rồi, chính Hội cũng luôn chờ đợi những thứ, những cung cách “bao cấp” đó mà không có ý tưởng và quyết tâm bằng chính từ sức mình để tồn tại và trưởng thành. Chẳng khác nào một người con đã ba bốn mươi tuổi, lại đã có vợ có con rồi mà cứ đèo queo ở với cha mẹ, cái gì cũng chờ cha mẹ lo cho chứ không chịu ra ở riêng, không chịu bươn chải lo tự làm ăn đủ nuôi mình, nuôi vợ con và còn đến lúc nuôi lại bố mẹ nữa chứ. “Bao” đến như thế thì, nếu Nhà nước, hoặc chỉ một cơ quan của Nhà nước ngang cấp mình thôi, thậm chí dưới cả cấp mình, có điều gì không đúng, thậm chí làm sai, đối với hoạt động sáng tạo, thì làm sao mà còn dám nói lên tiếng nói trung thực để bảo vệ ý tưởng tốt, nếu có, của mình và bảo vệ khát vọng sáng tạo của nhà văn vào lúc gay cấn nhất và vào lúc các nhà văn cần đến tổ chức nghề nghiệp của mình nhất? Chính vì vậy, không ít hội viên có đề nghị giải tán Hội Nhà văn đi.


4. Thay đổi gì?

Trong những dịp tâm sự riêng lẻ cũng như trên không ít diễn đàn công khai, những gì cần thay đổi để văn học Việt Nam có một chân dung sáng sủa hơn, để có những tác phẩm có giá trị hơn, thực ra không khó để nhận thấy mà đã quá rõ ràng .

a. Thực hiện dân chủ và ủng hộ khát vọng trong sáng tạo của nhà văn

Tôi, Phạm Xuân Nguyên và Nguyễn Huy Thiệp đã có một cuộc chuyện trò khá lâu và vui vẻ về hai nội dung này tại nhà riêng của Nguyễn Huy Thiệp trong một cái ngõ rất lắt léo mạn Khương Hạ. Chúng tôi vừa lai rai rượu Tây với mấy món ăn do Thiệp vừa đi chợ về và tự tay nấu nướng vừa bàn thảo rôm rả. Dĩ nhiên Nguyên luôn là anh chàng sôi sục, Thiệp thì từ tốn nói và cười mỉm, thỉnh thoảng “đá” vào vài tiếng nói lắp “làm duyên”, nhưng cả hai đều quyết liệt và rõ ràng. Chúng tôi đều thấy rằng, dân chủ là điều kiện quan trọng số một để có tự do sáng tạo của nhà văn và từ đó, mới có thể có những tác phẩm phản ảnh đúng thực trạng xã hội, phản ánh đúng số phận và khát vọng của con người. Đối với những nhà văn có tài thì điều đó vẫn rất quan trọng bởi vì những tìm tòi sáng tạo của họ thường rất dễ vượt ra ngoài khuôn khổ áp đặt của những tư duy chật hẹp. Tôi cho rằng, đỉnh núi là nơi cao nhất không dễ ai cũng leo lên được, nhưng cũng là nơi bắt đầu của cái đà lao xuống vực thẳm, mà khoảng cách của hai thái cực này nhiều lúc chỉ là vài ba mét vuông trên đỉnh núi đó. Người giám khảo giỏi phải có chỗ đứng cao hơn đỉnh núi hoặc chí ít cùng ngang đỉnh núi để có thể nhìn thấy kỷ lục này mà trao giải vô địch cho người leo núi kia. Nhưng nếu đứng thấp, thậm chí quá thấp, thì không thể thấy được kỷ lục vừa lập mà nguy hiểm hơn, lại cho rằng người leo núi đã bắt đầu lao xuống vực. Thiệp cười hì hì rồi lấy một ví dụ nữa rất hay: Cái thằng cầu thủ giỏi, có kỹ thuật khéo léo mới hay dẫn bóng chạy vù vù nơi đường biên, là nơi đối phương dễ nhầm là bóng đã ở ngoài sân, chỉ cần đối phương chần chừ một vàì giây là chết mẹ với nó rồi, nó a lê kéo bóng tuốt xuống và tạt vào cầu môn! Lúc ấy mà tay trọng tài gà mờ cứ thấy bóng mới chạm tới đường biên, chưa qua nửa vạch, mà đã cho rằng bóng đã ở ngoài sân, lập tức toét còi thì giết chết hết mấy thằng “siêu” này rồi chứ gì nữa! Chúng tôi thử nhẩm sơ qua chỉ những nhà văn bị “trọng tài” thổi còi, từ “nhắc nhở” cho đến thẻ vàng, thẻ đỏ và sau đó còn có người bị treo giò vài ba trận, thậm chí treo giò cả đời thì thấy ôi chao! La liệt người tài trong số đó: Trần Dần, Lê Đạt, Hoàng Cầm, Văn Cao, Hữu Loan, Phùng Quán, Nguyền Đình Thi, Nguyễn Công Hoan, Hà Minh Tuân, Nguyên Ngọc, Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu, Bùi Ngọc Tấn, Hoàng Ngọc Hiến, Lại Nguyên Ân, Nguyễn Duy, Phạm Tiến Duật, Tô Nhuận Vỹ, Trần Vàng Sao, Thanh Thảo, Bùi Minh Quốc, Phạm Thị Hoài, Dương Thu Hương, Nguyễn Trọng Tạo, Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Xuân Nguyên, Tạ Duy Anh… Tôi nhớ anh Nguyễn Minh Châu kể câu chuyện có một nhà văn đàn anh nâng chén rượu lên giữa đám đàn em: “Tao còn sống, còn cầm bút được đến bây giờ là nhờ biết sợ!”. Nói rồi ngửa mặt lên trời cười rung giường, nước mắt tuôn lã chã, giọt đổ xuống đất, giọt đổ vào lòng! Và Nguyễn Minh Châu, con người vốn ít nói, ít to tiếng đã phải kêu lên: “Tôi cũng phải nói rằng, sự độc đoán và chế áp của lãnh đạo văn nghệ trong nhiều năm qua đã khiến cho những nghệ sĩ chân chính luôn luôn gắn bó với cách mạng, với Đảng, suốt đời cảm thấy phạm tội” [5] .

Nguyên Ngọc cũng chua xót:“Đọc Pasternak, tôi thấy bi kịch Zhivago vẫn là của một người đứng ngoài, đứng trên cả nước Nga mà đau. Còn bi kịch của tôi: một người trong cuộc, đảng viên, cầm súng,nhiệt tình xây dựng chủ nghĩa xã hội mấy mươi năm. Thế mà tại sao tình yêu của chính mình lại bị dày đạp đến như vậy.” [6]

Những người đau đớn như thế, biết bao nhà văn như thế, toàn là người tử tế cả. Đã là nhà văn chân chính có ai không yêu đất nước, không yêu nhân dân, không tôn trọng sự thực, không trọng lẽ công bằng, có ai không tử tế (Đạo diễn Trần Văn Thuỷ, tác giả phim xuất sắc Chuyện tử tế cũng nhiều lần bày tỏ với tôi suy nghĩ này). Thậm chí có người tốt đến mức “không chịu được”. Như Phùng Quán chẳng hạn. Tôi muốn nhân dịp này công bố một câu chuyện “tốt không chịu được” của anh, qua một bức thư anh gửi tôi. Chỉ có thể trích nguyên văn, để nguyên cả những chỗ sai chính tả, một số đoạn trong lá thư dài mười bốn trang viết bằng bút lá tre, chấm mực xanh Hồng Hà mà nay đã trở màu đen, trên giấy làm đâu miệt Thuỵ Khuê, vàng khè:


Hà Nội đêm cuối thu 84,

Tô Nhuận Vỹ thân,

Tôi nhận được thư Vỹ, đã hai lần tôi viết thư trả lời, nhưng đọc lại tôi lại xé đi. Vì muốn trả lời một bức thư như vậy thật không đơn giản chút nào. Vì tôi nghĩ đó không chỉ thuần là một thư của tình bạn, mà còn là bức thư của một nhà văn gửi cho một nhà văn…


Anh trả lời bức thư đề nghị anh cho phép phục hồi bút danh Phùng Quán trên tạp chí Sông Hương trước đó của tôi. Trước khi viết bức thư đề nghị này, tôi vừa đọc xong tập truyện Dũng sĩ Chép Còm mà anh ký tên là Trần Vĩ Dạ, do NXB Trẻ ấn hành. Anh tặng Tô Diệu Lan, là con gái thứ hai của chúng tôi, nhân ngày sinh của cháu, với lời đề “Thân yêu tặng cháu Diệu Lan cuốn sách quý nhất đời của bác”. Tôi đọc cuốn sách với cái tên Trần Vĩ Dạ mà lòng đau như cắt. Tôi viết bức thư và tin rằng anh sẽ đồng ý bởi không khí đổi mới đã bắt đầu cựa quậy trong xã hội, bởi vì đó là một điều tuyệt vời đối với Sông Hương nhưng cũng là chuyện tốt đẹp đối với cái tên anh đã bị chôn vùi mấy chục năm trời chỉ vì những vần thơ gan ruột và nghĩa khí của anh. Vậy mà anh từ chối!


Ba mươi năm đã trôi qua. Biết bao nhiêu sự kiện đã rêu phong. Và tôi cũng không còn được chính quyền của Đất nước (mà tôi đã hiến dâng cả tuổi trẻ và cả máu để góp phần nhỏ bé xây dựng và bảo vệ) coi tôi là nhà văn. Tôi đã bị “tướt quyền viết văn”(tháng 3-1958 Hội nhà văn quyết định khai trừ tôi vĩnh viễn tôi khỏi Hội nhà văn) từ khi tôi mới hai mươi bốn tuổi đầu - đến nay tôi đã năm mươi tư tuổi rồi [7] . Tôi chắc Vỹ hiểu còn hơn cả tôi, ở đất nước ta bị khai trừ vĩnh viễn khỏi Hội nhà văn, thì một nhà văn sẽ rơi vào một hoàn cảnh bi thảm như thế nào. Vì mặt trận văn nghệ là một trong những mặt trận được chuyên chính nghiêm nhặt nhất. Tôi vẫn ví nhà văn là một cầu thủ đá bóng. Và cả Đất nước chỉ có một sân cỏ mà thôi - đó là Hội nhà văn Việt nam. Vỹ thử tưởng tượng một cầu thủ bị đuổi khỏi sân cỏ suốt ba mươi năm - thì cầu thủ đó sẽ hoá thành người như thế nào? Sau ba mươi năm, nếu cầu thủ đó không quên quả bóng đã là chuyện lạ. Và nếu anh ta không còn đá được nữa thì lỗi đó thuộc về ai?... Tôi rất xúc động trước tình âu yếm của bạn bè, đặc biệt là với các anh chị ở Tạp chí Sông Hương muốn in thơ tôi với cái tên Phùng Quán“trở lại với làng văn”. Nhưng mong các bạn hiểu cho tôi. Năm nay tôi đã năm mươi tư tuổi. Tôi đã đi gần trọn một đời văn. Tôi không muốn thêm gì và bớt gì (PQ gạch chân bốn chữ thêm gìbớt gì - TNV) những gì tôi đã làm, đã viết. Tôi không thuộc vào loại các nhà văn cùng thế hệ và tuổi tác với tôi, bằng mọi cách và mọi giá, đeo đẳng cho bằng được cái tên mình trên báo, trên sách…

... Nước Sở có người họ Hoà, được một hòn ngọc ở trong núi, đem dâng vua Lệ-vương. Vua sai thợ ngọc xem, thợ ngọc nói “Đó không phải ngọc”. Vua cho người họ Hoà nói dối, sai chặt chân trái. Đến khi vua Vũ vương nối ngôi, người họ Hoà lại đem ngọc ấy dâng. Vua sai thợ ngọc xem. Thợ ngọc nói “Đó không phải ngọc”, vua lại cho họ Hoà là nói dối, sai chặt nốt chân phải. Đến khi vua Văn vương lên ngôi, người họ Hoà ôm hòn ngọc, khóc ở chân núi Sở-sơn suốt ba ngày ba đêm đến chảy máu mắt ra. Vua thấy thế sai người đến hỏi. Người họ Hoà thưa: “Tôi khóc không phải vì hai chân tôi bị chặt ,chỉ thương vì nỗi ngọc mà cho là đá, nói thật mà cho là nói dối”. Vua bèn sai ngưòi xem lại cho kỹ, thì quả nhiên là ngọc thật, mới đặt tên ngọc là “ngọc bích họ Hoà”. Mỗi nghệ sĩ chân chính đều có một “ngọc bích họ Hoà” của mình để dâng hiến cho Đất nước, Nhân dân. Nhưng tôi vô cùng hối hận là đã không đủ lòng tận trung như người họ Hoà để dâng “ngọc bích” của mình lên Đảng, cho đến lúc được nhận ra không phải đó mà ngọc thật (PQ sót mấy chữ là ngọc giả - TNV
)…” [8]


Người như thế, người “yêu Đảng hơn cả Đảng” như thế mà bị chà xát mấy chục năm trời, ôi chao ôi là trời!

Vừa qua, Giải thưởng Nhà nước đã được trao cho Phùng Quán, Hoàng Cầm, Lê Đạt. Tôi cho rằng chậm còn hơn không. Nhưng có một cái gì không đàng hoàng, thật ú ớ trong chuyện này. Không một lời nào, không một câu nào, dù ở đâu đó, dù của một ai “bán chính thức” đó, ngay như của chỉ Hội Nhà văn, rằng đối xử trước đây đối với họ là SAI, là SAI LẦM. Không. Không một lời. Không một ai. Nói như Nguyễn Trọng Tạo:“Họ không sửa sai. Tức là họ nói: chúng tôi không sai. Nhưng chúng tôi tặng thưởng. Như thế là một nhà nước không đủ can đảm để nói lên một sự thật. Không sòng phẳng…” [9]


*


Dĩ nhiên, “chưa có một nhà văn nào trên thế giới tuyên bố rằng mình hoàn toàn tự do… Ở các quốc gia dân chủ phương Tây người ta cũng chất đầy ngăn kéo những trang không được xuất bản” như Phạm Thị Hoài khẳng định [10] . Nhật Tiến cho biết, trong một lá thư gửi từ trong nước, một nhà văn hỏi anh “ở hải ngoại các anh đã thực sự có tự do cầm bút hay không?”, Nhật Tiến trả lời: “Tôi thấy rõ người cầm bút ở đây chưa thực sự có tự do cầm bút” [11] . Để minh chứng cho câu trả lời, Nhật Tiến đã mô tả những giới hạn của cộng đồng hải ngoại bị chi phối bởi những thành kiến, những quan điểm chống cộng hẹp hòi mà không nhìn đến thực trạng của quê hương.

Ngay như ở nước Mỹ, một người bạn nghiên cứu văn hoá lâu năm nói với tôi, có tự do sáng tác không có nghĩa là có cùng cơ hội được các cơ sở truyền thông “chính luồng” (mainstream) chú ý và thông tin quan điểm của mình. Lấy tỷ dụ trường hợp của J. P. Sartre và Noam Chomsky. Có thể nói cả hai đều là những đại trí thức cấp tiến trong xã hội mình đang sống, phê bình nặng nề chính sách nhà nước, được cả thế giới ngưỡng mộ và lắng nghe. Nhưng Sartre thời đó được báo chí và xã hội Pháp trân trọng tham khảo trong khi Chomsky hoàn toàn bị giới truyền thông “chính luồng’’ ở Mỹ tẩy chay. Chúng ta có thể có tự do sáng tác, tự do ngôn luận, nhưng nếu các cơ sở truyển thông đại chúng - báo chí, truyền thanh, truyền hình, v.v… - đều do một nhóm tài phiệt khổng lồ làm chủ, thì những quan điểm “ngược dòng’’ sẽ hoàn toàn bị bỏ quên, hoặc vô hiệu hoá. Những tiếng nói đó sẽ không có người nghe, trở thành những tiếng vang vọng trong sa mạc. Người bạn tôi coi đó là một thứ kiếm duyệt cực kỳ tinh vi, “kiểm duyệt phi kiểm duyệt”, một loại cơ cấu vô chiêu của chủ nghĩa đại công ty trị (corpocracy).

Và, tất nhiên, không phải cứ có tự do (khái niệm như nhiều nhà văn trong và ngoài nước quan niệm hiện nay) thì lập tức nhà văn đã có thể sáng tạo ra những tác phẩm xuất sắc. Tôi nhớ chuyện Thái Bình. Trong những buổi chuyện trò thân tình với nhà văn Đức Hậu, người đã làm Chủ tịch Hội Văn học Nghệ thuật mười mấy năm ở đây, anh cho biết, sau những vụ biểu tình, đấu tranh quyết liệt của nhân dân chống bọn tham nhũng và ức hiếp nhân dân, đã từng có xu hướng đổ tội, đổ nguyên nhân của sự vụ cho “bọn phản động”, nhưng Trung ương khẳng định đó là do hàng ngũ cán bộ đã bị tha hoá, do nội bộ gây ra. Nguyên Tổng bí thư Đỗ Mười về họp với lãnh đạo Thái Bình và ông đã phẫn nộ: “Những người đã cõng tôi qua sông khi Tây vây tứ bề, đã có hàng vạn đứa con là thương binh, liệt sĩ trong hai cuộc kháng chiến mà là địch à? Các anh ức hiếp, chà đạp người ta quá trời, ai mà chịu nổi!” Ông phẫn nộ với đại ý như thế. Viết về vụ đó, nguyên Tổng bí thư đã “bật đèn xanh” như thế… vậy mà mấy năm đã qua, chưa có một tác phẩm nào hay về cuộc đấu tranh này của nhân dân Thái Bình. Cũng vào hôm làm việc với Hữu Thỉnh, anh kể chuyện tiếp nữ Chủ tịch Hội nhà văn Rumania. Bà ấy nói: “Khi đang còn chế độ độc tài Ceaucescu vẫn có những tác phẩm xuất sắc như Nông dân, Giờ thứ 25 (Gheorghiu), còn bây giờ đã được tự do hoàn toàn lại chưa có những tác phẩm gần như thế.”

Điều đó vẫn đúng ngay ở các nước mà nền dân chủ đã phát triển cao. Chị Thuỵ Khuê, một cây bút phê bình sắc sảo và hiểu biết nhiều tình hình văn học trong và ngoài nước, đã cho rằng một trong hai nhược điểm của văn học hải ngoại là:

“... Chưa có thành tựu khai phá, những chân trời nghệ thuật mới... Sự tiếp xúc với văn hoá Âu Mỹ dường như chỉ mới rất hình thức... Không có một phong trào như Tự Lực, như Sáng Tạo. Giá trị đổi mới văn thơ trong khoảng hai mươi năm gần đây đến từ những tác giả trong nước: cựu Nhân văn như Trần Dần, Lê Đạt, Đặng Đình Hưng…, hoặc trẻ hơn như Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài.” [12]

Chúng tôi muốn nói rằng, theo chúng tôi, bên cạnh tự do sáng tạo, nhà văn còn cần bản lĩnh, khát vọng. Không có bản lĩnh và khát vọng (trong bản lĩnh bao hàm cả tài năng) thì, như “con gà công nghiệp”, mở chuồng cho tự do ra ngoài vẫn cứ “tự giác” luẩn quẩn quanh cái chuồng cũ kỹ. Về điều này, Phạm Xuân Nguyên cũng đã viết :

“Nhiều người đã nói đến sự cấm đoán, bắt bẻ, kiểm soát từ trên xuống đối với những người viết. Nhưng có phải vì thế mà người cầm bút lại cho mình ‘được hèn’ để viết xuôi chiều, dễ dãi không?… Ngẫm cho kỹ, toàn bộ tác phẩm Nam Cao viết về người trí thức cũng chỉ xoay quanh một chủ đề duy nhất là căn bệnh ‘mình tự làm hèn mình’ của tầng lớp này… Vấn đề ở đây là bản lĩnh và tầm vóc của người cầm bút, tức là nội lực chủ động của anh, chứ không phải cứ thụ động ngồi chờ cái “hích” từ bên ngoài rồi khi được thì hoan hỉ tâng bốc, khi không được thì trách móc đổ lỗi.” [13]

Nhà văn trẻ Lê Hùng Vọng, bắt đầu cầm bút từ ngày còn làm việc ở tạp chí Sông Hương trước 1990, tâm sự khi tôi hỏi anh về bản lĩnh của người cầm bút mỗi khi “tai nạn” đến hoặc rình rập đến với mình:

“Theo tôi, cái được sau một tai nạn, như ‘vụ’ Sông Hương chẳng hạn, còn tuỳ thuộc bản lĩnh của người cầm bút. Văn học sử Việt Nam chắc chắn sẽ truyền tụng những câu chuyện các nhà văn… đái ra quần khi bị các quan văn nghệ nhắc nhở. Không ít anh từ đó về sau chỉ cho ra đời những thứ dở hơi. Người cầm bút có bản lĩnh bao giờ cũng tạo ra cho mình một sức đề kháng, không bao giờ viết sai những điều mình cảm nhận về cuộc đời. Vì cái tác phẩm viết ra từ một thứ giả giọng giả lưỡi… nghe nó chán lắm! [14]

Còn nhà thơ Nguyễn KhắcThạch, Tổng biên tập tạp chí Sông Hương hiện nay thì nói rõ thái độ của mình:

“Với cá nhân, sau mỗi lần bị ‘tai nạn nghề nghiệp’ mỗi người đều biết cách ứng xử riêng để được tồn tại như chính mình và điều quan trọng là không được HÈN. Tôi nghĩ, tôi cũng vậy.” [15]

Còn chuyện in ấn nữa. Tôi nhớ hôm đó Nguyễn Huy Thiệp kể chuyện cuốn Tiểu long nữ của anh đã được Cục Xuất bản ký giấy cho phép in, nhưng đưa về nhà xuất bản thì tay giám đốc H. lại… không dám! Mới có cái tên “giám đốc Hèn” là vậy. Thiệp cười mỉm: “Thằng viết không dám viết, thằng giám đốc in thì hèn... Nền văn học của mình mấy năm nay nó thiếu sự hồn nhiên. Mà thằng văn nghệ sĩ phải giữ được sự hồn nhiên trong sáng tác, trong ý nghĩ, trong cuộc sống, nếu không thì…còn nói gì nữa.”

Dân chủ cho sáng tác và ủng hộ khát vọng, bản lĩnh sáng tạo vì nhân dân, vì con người của nhà văn rõ ràng là các nội dung để nền văn học Việt Nam chuyển biến thực sự, chuyển biến về chất. Và đó là các nội dung quan trọng nhất phải trở thành mục tiêu phấn đấu mà tổ chức Hội Nhà văn, nếu nó muốn tiếp tục tồn tại một cách hữu ích cho đất nước. Dĩ nhiên, tôi không bao giờ nghĩ một cách ấu trĩ rằng, mọi cái hay về dân chủ của các nước phương Tây đều có thể áp dụng ở nước ta. Và với trí thức yêu nước người Việt ở nước ngoài, tôi tin là có nhiều người chia sẻ suy nghĩ này của tôi. Giáo sư Cao Huy Thuần (Pháp) khẳng định trong từng câu, từng chữ:

“Nếu tôi muốn dân chủ là vì tôi nghĩ rằng nước tôi cần dân chủ, chứ không phải vì anh ép tôi mà tôi phải theo anh. Dân chủ không phải là con đẻ của một vụ cưỡng hiếp. Dân chủ cũng không có mẫu mực. Đúng,có vài nguyên tắc căn bản. Trên những nguyên tắc căn bản đó, mỗi truyền thống lịch sử vạch ra cho mình những hình thức khác nhau... Trí thức chúng ta quá đủ thông minh để biết dân chủ là gì, nên lấy cái gì và bỏ cái gì của ghương Tây, nên bắt đầu như thế nào,bước những bước nào trước, những bước nào sau. Tôi nhắc lại: chỉ cần nhà cầm quyền muốn thực sự. Sau đó, người Việt Nam có thừa văn hoá để sáng tạo. Và khi người Việt Nam đã đoàn kết được với nhau, đã xem Nhà nước như là Nhà nước chung của tất cả, tôi đố anh Tây phương nào dám ép Dân chủ với Nhân quyền.” [16]

 


[1]Trần Văn Thuỷ, Nếu đi hết biển… NXB Thời Văn, USA, 2003
[2]Bình luận về cuộc gặp của Đại sứ M. Marine với giới báo chí của cộng đồng người Việt tại Washington DC ngày 29/5/2005 nhân Thủ tướng Phan Văn Khải sắp sang thăm Mỹ theo lời mời của Tổng thống Bush, báo Cali Today, số ngày 31-5-2005
[3]Nguyễn Duy, Trả lời báo Thanh niên trước Đại hội Nhà văn lần thứ 7, http://vietbao.vn/Van-hoa/Khi-nha-van-tu-hoi-chinh-minh/40074698/105/
[4]Bùi Ngọc Tấn, Trả lời báo Thanh niên ngày 8/5/2005
[5]Nguyễn Minh Châu,“Hãy đọc lời ai điếu cho một giai đoạn văn nghệ minh hoạ”, Văn nghệ số 49-50, 5-12-1987
[6]“Gặp gỡ Nguyên Ngọc”, Sông Hương số tháng 6/1989
[7]Trong bài trả lời phỏng vấn Thuỵ Khuê trên Hợp lưu số 81, Lê Đạt kể lại rằng, Hội Nhà văn khai trừ ra khỏi Hội ba năm đối với các anh Trần Dần, Lê Đạt, Đặng Đình Hưng, Tử Phác; hai năm đối với Hoàng Cầm; một năm đối với Phùng Quán. Có lẽ 30 năm mà anh Phùng Quán nói ở đây là 30 năm bút danh Phùng Quán không được xuất hiện trên văn đàn. (http://www.hopluu.net/HL81/thuykhue-ledat.htm)
[8]Phùng Quán, Thư gửi Tô Nhuận Vỹ, cuối thu 1984
[9]“Mừng vui còn có hôm nay”, talawas ngày 07/6/2007,
,http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=10124&rb=0101
[10]Phạm Thị Hoài, “Hợp đồng ngầm với các con chữ”,
http://www.nhanvan.com/phongvan/pvcuong_hoi_pthoai.htm
[11]Nhật Tiến, Trả lời tại Washington ngày 11/10/1985
[12]Thuỵ Khuê, “Thử tìm một lối tiếp cận văn học sử: hai mươi nhăm năm văn học hải ngoại 1975-2000”
http://dactrung.net/baiviet/noidung.aspx?BaiID=Fw9VtoP4V8jqlObmtJfM9w%3d%3d
[13]Phạm Xuân Nguyên, “Cái hèn của người cầm bút”, Sông Hương số 31
[14]Lê Hùng Vọng, Thư gửi Tô Nhuận Vỹ, ngày 15/9/2004
[15]Nguyễn Khắc Thạch, Thư gửi Tô Nhuận Vỹ, ngày 27/8/2004
[16]Cao Huy Thuần, Thư gửi Tô Nhuận Vỹ, ngày 18/8/2004

 

_________________

 

Trong thái độ ủng hộ khát vọng sáng tạo, hiểu biết của nhà văn, việc mở rộng giao lưu quốc tế có một tác dụng rất quan trọng.

Bây giờ, chuyện đi nước ngoài, với nhiều ngành, nhiều người là chuyện có khi còn dễ hơn cả người nhà quê ngoài Bắc mà vô Thành phố Hồ Chí Minh nữa. Đã qua lâu rồi cái thời “nhất mẹ nhì con.” Nhất là thời buổi hoà nhập với nền kinh tế thế giới, Việt Nam hoạt động năng nổ trong khối ASEAN, tham gia tích cực vào APEC, ASEM, vừa gia nhập WTO… Đi bằng nhiều cách: Nhà nước bỏ tiền, đối tác bỏ tiền, Nhà nước và đối tác cùng bỏ tiền, tổ chức vận động các doanh nghiệp hảo tâm bỏ tiền, tổ chức cùng cá nhân cùng bỏ tiền, tổ chức chỉ đứng ra “làm giấy tờ” còn cá nhân bỏ tiền hoặc cá nhân tự lo “trọn gói”… Nhưng, với một tổ chức có khả năng rất lớn trong các mối quan hệ “phi chính phủ” (NGOs) như Hội Nhà văn Việt nam mà mỗi năm chỉ có dăm “đoàn ra” và dăm “đoàn vào”, mỗi đoàn trung bình chỉ có vài ba người, là quá lạ. Song thực ra cũng không có gì là lạ, khi mà Hội hay ngại “gió máy” nên cứ chờ các đối tác “tin cậy” mời, được “cơ quan chức năng” đồng ý, mới cử người đi và nhận người vào. Gần cả ngàn hội viên ít ra cũng 90% trong số đó chỉ biết chờ sự quan tâm của Hội thì tới… “Tết Marốc” mới biết được xứ người nó tròn méo ra sao để mà mở mang hiểu biết (kể cả đến Lào là nước dễ qua lại nhất). Trong lúc đó, cơ chế đối ngoại “phi tập trung” (không nhất thiết cái gì cũng qua Trung ương) đã được thực hiện từ lâu. Ngay ở Thừa Thiên Huế, trong các dịp Festival 2000, 2002 và 2004, 2006, chỉ riêng ngành du lịch tỉnh, mỗi dịp đều có từ 30 đến 40 cán bộ nhân viên của ngành này được đến Pháp học và thực tập các kỹ năng lễ tân - điều hành, bếp - bồi bàn và phục vụ phòng từ một đến ba tháng tại các trường du lịch, khách sạn có chất lượng của Pháp cũng như hàng chục học viên và thầy giáo của các trường du lịch Pháp tới làm bếp, lễ tân, bồi bàn tại các khách sạn ở Huế. Mà tất cả chỉ cần sự thống nhất quyết định của địa phương và một vùng vốn đã có quan hệ như Poitou Charent hay Nord Pas de Calais mà thôi. Mặt khác, tôi nghĩ, ở vào giai đoạn “trăm công nghìn việc” như hiện nay, “cơ quan chức năng” cũng chẳng hơi đâu mà yêu cầu Hội nhà văn “nhất bộ nhất bái” trong hoạt động đối ngoại như vậy. Ngay ông Lê Khả Phiêu cũng đã nói tại hội thảo “Tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh”: “Tôi nghe anh Nguyễn Duy đi Mỹ nói chuyện về thơ mà cũng bị ‘nhấc lên đặt xuống’ này nọ? Đem cái hay của thơ ca mình giới thiệu với bạn bè thế giới và học cái hay từ thơ ca của bạn là điều tốt chứ sao lại cản trở, ngại ngùng?”

Đi một ngày đàng học một sàng khôn. Như cái thực và giả chẳng hạn. Đi đây đi đó mới thấy, à ra thế, có nơi có hẳn cơ chế, có hàng loạt cơ chế để bắt anh không được dối trá, không được ba xạo. Nếu anh dối trá, ba xạo, ngay chỉ với con cái trong nhà thôi, nó mà kiện thì, chiếu theo điều 1 điều 2, mục 3 mục 4… anh lập tức lãnh đủ, chứ không chỉ hô hào đạo đức chung chung. Chuyện đó cũng là bắt đầu của việc viết thật hay giả đấy. Ví dụ thế. Cũng lấy ví dụ như Trung tâm William Joiner (WJC), đã có hàng chục năm quan hệ với Hội Nhà văn, đã mời mấy chục nhà văn nghệ sĩ tiêu biểu của Việt Nam qua dự hội thảo, thăm thú Hoa Kỳ. Tôi tin chắc rằng, tất cả anh chị em nhà văn, nghệ sĩ đã qua Mỹ do WJC mời (kể cả anh Hữu Thỉnh, Chủ tịch Hội), đều thấy các chuyến thăm thú, các cuộc gặp gỡ với các nhà văn, trí thức Mỹ và cả trong cộng đồng người Việt, đều là các cuộc đi và gặp gỡ bổ ích cho sự mở mang đầu óc của mình và chỉ có lợi cho đất nước khi, không ai là không tranh thủ, nếu có dịp, để giới thiệu về Tổ quốc thân yêu. Mà có ai trong số họ, sau một chuyến đi, thậm chí sau nhiều chuyến đi như thế, bỗng chốc từ một người yêu đất nước mình trở thành một kẻ ghét đất nước mình không? Không, tôi không hề thấy! Có chăng là càng đi càng sốt ruột, càng khát khao sự thay đổi mau chóng hơn nữa của đất nước, vì chúng ta có biết bao người con tài giỏi, dồi dào tài nguyên, đã đổ biết bao xương máu vì độc lập, tự do, hạnh phúc… mà dân còn khổ quá, mà nước còn nghèo và nhiều bất công quá! Như Nguyễn Quang Thiều chẳng hạn. Học Tây, nói tiếng Tây như gió, đi Tây như đi chợ, thơ thì như văn xuôi Tây, văn xuôi thì mệnh đề chính mệnh đề phụ dây cà dây muống kiểu ngôn ngữ Hy-La… vậy mà cứ nói chuyện vài câu, đọc vài dòng của Thiều, không biết sao trong đầu tôi, trong lòng tôi cứ như nhìn thấy, như nghe thấy cánh đồng sục bùn và tiếng con cá rô quẫy, dòng sông hai bờ lau lách với tiếng mái chèo khuấy nước của ngưòi đi đánh cá đêm ở làng Chùa của cái xứ Hà Đông còn nghèo khổ của anh và bỗng thương nhớ những làng quê đẹp tuyệt vời mà cũng còn nghèo khó nơi xứ Huế của tôi nữa. WJC, như chính nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm trong buổi cùng nhiều nhà văn nhà thơ Huế tiếp đoàn đại biểu của WJC do Kevin Bowen dẫn đầu, đã phát biểu: “Các anh đã như một con tàu phá băng trong lúc quan hệ Việt - Mỹ đóng băng. WJC đã làm được nhiều việc cho quan hệ văn hoá Việt-Mỹ khiến cả những nhà chính trị cũng ngạc nhiên [1] .

Vậy mà, tôi nghe nói, có ai đó xì xào WJC “phức tạp” này nọ, vậy là Hội “gài số lùi,” khiếp!

Mà sao thế nhỉ, kiểu chỉ “doạ” một chút mà đã khiếp đến thế thì Nhà nước mình nên đóng sập hết các cửa biên giới, “ta về ta tắm ao ta” yên sự cho rồi! Kiểu tảng lờ như tẩy chay đó, vô tình, như “phối hợp” cùng loại chống cộng cực đoan mấy năm trời quyết liệt đánh WJC “thiên tả”, “tiếp tay cho cộng sản Việt Nam”!

Ngay cái việc cho đến bây giờ, trong lúc các ngành, các tổ chức trong nước đã có gần một trăm tờ báo và tờ tin điện tử (chưa kể vô số cá nhân đã có website riêng), vậy mà Hội Nhà văn và báo Văn nghệ vẫn cam phận “ăn sau chạy dọi”, không có lấy cái phương tiện hiện đại tối thiểu này giúp nhà văn trong nước có thêm một kênh “chính thức” để thông tin, trao đổi tác phẩm, kinh nghiệm sáng tác… của mình với thế giới và học hỏi những gì cần phải học từ trí tuệ của đồng nghiệp năm châu bốn biển. Đó quả là một sự quá lạ mà nguyên nhân chắc chắn không phải là do tổ chức nhà văn không đủ trình độ và điều kiện để tiến hành. Đó là vì chưa được “bật đèn xanh” nên chưa dám.

b. Các nhà văn trong và ngoài nước hãy ngồi lại với nhau

Nhưng, giao lưu quốc tế lại có nhiều mặt, nhiều nội dung. Bản thân tôi thấy rằng, đối với nhà văn Việt Nam, trước hết và quan trọng nhất trong việc mở rộng quan hệ quốc tế là giao lưu với các nhà văn, các nhà văn hoá, các nghệ sĩ người Việt đang sinh sống và hành nghề ở các nước trên thế giới.

Sở dĩ tôi xem đây là nội dung hàng đầu trong việc mở rộng giao lưu quốc tế vì không thể hạ quyết tâm tiếp thu những tinh hoa của thế giới, thu hút chất xám trong cộng đồng người Việt ở nước ngoài vào công cuộc hưng thịnh quốc gia mà không chú ý tới trí tuệ, tài năng và tâm huyết với quê hương có không ít trong khối trí thức xã hội - nhân văn này. Mặt khác, làm được việc này thì, đội ngũ nhà văn Việt Nam sẽ đóng vai trò đi đầu, là chiếc cầu nối cho việc hoà giải, hoà hợp dân tộc, đặc biệt giữa cộng đồng người Việt ở nước ngoài với đồng bào trong nước, do hoàn cảnh lịch sử, đã để lại một hố sâu ngăn cách, dị biệt chua xót sau chiến tranh.

Có một thực tế là, với nghị quyết 36 của Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam, lực lượng chống cộng cực đoan chống đối là lẽ đương nhiên rồi, nhưng nhiều trí thức người Việt ở nước ngoài mà tôi gặp cũng không tin nghị quyết đó sẽ được thực hiện trong thực tế, vẫn nghĩ đó chỉ là sự tuyên truyền quen thuộc lâu nay. Bởi ngay cựu Thủ tướng Võ Văn Kiệt mới phát biểu, cũng chỉ ở mức độ vừa phải, về nội dung hoà hợp hoà giải phải đi vào thực chất, mà đã bị phê phán gay gắt. Còn ở cấp lãnh đạo Hội Nhà văn và nhiều nhà văn trong nước thì rất ít người biết đến nghị quyết này, mặc dầu sự khẳng định “người Việt Nam ở nước ngoài là bộ phận không tách rời và là nguồn lực của cộng đồng dân tộc Việt Nam” là sự khẳng định đúng đắn. Không có con đường nào khác để thực sự thống nhất lòng dạ hơn 80 triệu dân, không thể hưng thịnh đất nước, hiện đại hoá đất nước để “sánh cùng các cường quốc năm châu” mà gần ba triệu người Việt Nam ở nước ngoài lại đứng ngoài cuộc.

Dĩ nhiên, việc giao lưu, cho dù là giữa các văn nghệ sĩ, nhà văn hoá - những người thường rất tình cảm và trọng nhân ái - cũng sẽ vô cùng khó khăn, nhiều trắc trở chứ không đơn giản chút nào.

Cho đến nay, trừ một số rất ít văn nghệ sĩ trong nước có dịp đi nước ngoài, mà có đủ thời gian và điều kiện, dĩ nhiên không ngại bị “đánh giá” này nọ, mớí thực sự có dịp gặp gỡ, trao đổi với văn nghệ sĩ hải ngoại và ngược lại, số văn nghệ sĩ hải ngoại trong các dịp về thăm quê “dám” có các cuộc tiếp xúc, tâm sự với đồng nghiệp, kể cả hai “phía”, đều chỉ tính được trên đầu ngón tay, trong lúc chỉ tính riêng nhà văn, trong và ngoài nước, trên cả ngàn người, trong đó nhà văn hải ngoại tôi nghĩ là không dưới vài trăm. Đó là một thực tế đáng buồn vì nói cho cùng, như vậy, bản lĩnh của nhà văn cũng xoàng quá. Thường là đổ cho khách quan, đổ cho công an, tuyên huấn hay cộng đồng, cho trách nhiệm lo miếng cơm manh áo của vợ con gia đình, nhiều người “ tự run”, đánh mất phẩm chất quý giá nhất của người trí thức là sự trung thực. Ít nhà văn khi đến Mỹ dám công khai khẳng định những tiến bộ ở trong nước và phê phán những tiêu cực của xã hội Mỹ cũng như khi về trong nước,không dám khen nhiều điều hay của xã hội Mỹ mà mình cần học tập. Với nhiều văn nghệ sĩ hải ngoại thì cái mũ “cộng sản” của cộng đồng luôn luôn chực chờ để chụp xuống đầu họ. Báo chí không ít lần đã phải kêu lên về cái thực trạng “mũ cối ở đây nhiều hơn ở cả Hà Nội!”. Cho nên, các nhà văn luôn phải “biểu diễn lập trường” (chữ của Nguyễn Mộng Giác). Trong nhiều dịp chuyện trò tâm sự, không ít anh em đồng nghiệp ở Mỹ trong khi cho rằng trong nước hoàn toàn chưa có tự do sáng tác với khá nhiều ví dụ thì đồng thời cũng khẳng định lúc này, tại đây, cũng chưa có tự do sáng tác như mình ao ước, nên có lúc phải sống hai mặt. Hoàng Khởi Phong viết:

“Ở ngoại quốc này chúng ta làm chính trị dễ, yêu nước cũng dễ, làm văn chương cũng dễ, lấy nhau cũng dễ, bỏ nhau cũng dễ, làm thương mại cũng dễ, khai phá sản cũng dễ. Nói tóm lại, ở đây cái gì cũng dễ, chỉ trừ có một tấm lòng chân thật là hơi… khó chút xíu [2] .”

Chỉ vì mời hai học giả từ Hà Nội là Hoàng Ngọc Hiến và Nguyễn Huệ Chi qua tham gia nghiên cứu về văn học và văn hoá cộng đồng người Việt sau chiến tranh và do khởi phát từ một chi tiết trong phần đặt vấn đề của chương trình nghiên cứu của Nguyễn Bá Chung, trong đó có kể chuyện một cháu nhỏ khoe với ông nội lá cờ Việt Nam cháu tìm thấy trong sách nhà trường - cờ đỏ sao vàng thay vì cờ vàng ba sọc đỏ… chỉ bắt đầu từ như thế (một đoạn văn không do Nguyễn Bá Chung viết), mà một cuộc chống lại ồ ạt, ghê gớm bằng từ hàng trăm bài viết không thiếu lời lẽ nhục mạ, đe doạ, các cuộc mít tinh hội họp phản đối, các kiến nghị gay gắt, kiện cả ra toà án mà khi toà án bác bỏ thì vu luôn cho thẩm phán, luật sư thiên vị…, mà “đánh” tới tấp suốt hơn năm năm trời, với phạm vi trên toàn cõi có người Việt Nam sinh sống ở nước ngoài rằng, Trung tâm William Joiner của Đại học Massachusetts, Kevin Bowen là tiếp tay cho cộng sản, rằng Nguyễn Bá Chung là cộng sản nằm vùng và phải trừng trị anh này! Ở một đất nước tự do mà hành xử như vậy thì hãi quá. Cho nên, nói là nói vậy chứ cũng thông cảm cho cái “hơi khó chút xíu” đó của người viết ở đây. Nhưng, trong không khí chống cộng cực đoan như thế, không phải không có những người dù không tán thành thể chế trong nước vẫn có cái nhìn trầm tĩnh như Trương Vũ:

“Vào lúc này mà nói chuyện chống cộng với ngôn ngữ, phương thức của ba mươi năm cũ chẳng khác gì chống những hồn ma trong một không gian hồi tưởng. Chẳng khác gì đi đi lại lại trên những lối mòn của tâm thức. Chống những hồn ma không được thì chống nhau. Ai không giống mình người đó là cộng sản, là phản bội.” [3]

Nguyễn Gia Kiểng cho rằng loại thái độ đó “chỉ là để biểu lộ và trút bớt sự căm thù đang sôi sục trong lòng chứ không phải để giành thắng lợi. Cuộc đấu tranh vì vậy không khác gì một cuộc lên đồng, những người được ủng hộ nhất là những người tỏ ra táo bạo nhất, lên đồng hay nhất,gây được ảo tưởng mạnh nhất.” [4]

Gần đây, trước sự kiện tờ Việt Weekly bị chụp mũ “thân cộng”, Dốc Thượng đã có một tổng kết chua chát cuối một bài viết đáp trả:

“Người Việt đến Mỹ đã chứng tỏ rằng họ thông minh không kém bất cứ sắc dân nào. Đã chứng tỏ họ tài giỏi về mặt thương mại. Họ đã thành công trong tất cả mọi ngành nghề. Nhưng mặt sinh hoạt dân chủ vẫn còn rất sơ khai và thấp kém.” [5]

Vâng, đó là khó khăn, trắc trở đầu tiên trong việc gặp gỡ, giao lưu. Và khó khăn, trắc trở tiếp ngay đó, hoặc đúng ra là cùng lúc: đang tồn tại dòng văn học “căm thù,” “căm hận” qua tác phẩm của các nhà văn trong và ngoài nước. Đọc tác phẩm của nhiều nhà văn, kể cả những anh em có tấm lòng hướng về quê hương, thấy dày đặc những hình ảnh, những câu chữ y chang những câu chữ tuyên huấn cũ kỹ một thời trong nước “đã viết thì ta chỉ có tốt và tốt hơn nữa và địch chỉ có xấu và xấu hơn nữa”! Và thậm chí dữ dằn, ghê sợ hơn. Rồi những chuyện kể cay đắng, đau xót, thê thảm, uất ức của những ngày ở các trại tù cải tạo, cảnh cùng quẫn buộc phải vượt biên để bị hải tặc hiếp vợ rồi quăng con xuống biển ngay trước mắt mình, cảnh bị tịch thu nhà cửa,tài sản ngay sau ngày Chiến thắng, chuyện con cái tuyệt đường học tập vì lý lịch cha mẹ… Mà rất hiếm, quá hiếm hoi, những hiểu và biết về các địa ngục trần gian, những “chuồng cọp” đày đoạ những người cách mạng và yêu nước ở Sở thú Sài Gòn, Chín Hầm, Côn Đảo, Phú Quốc, về sự tan nát thê lương của hàng ngàn làng quê thành phố, về những nỗi đau khủng khiếp của hàng triệu bà mẹ mất con mất chồng “của phía bên kia” trong chiến tranh, thậm chí ngay ở các vùng ngoại ô các thành phố miền Nam trước 75, các vùng “tự do oanh kích” của quân Mỹ và Sài Gòn [6] .

“Chúng ta kể chuyện nào và bôi xoá chuyện nào? Chôn thây nào, và quật mồ ai? Nếu dựng dậy lịch sử, thì chúng ta hãy can đảm cho tất cả những bóng ma quá khứ trở về mặt đất. Có ít nhất 3 triệu bóng ma như thế sẽ đi quanh tượng đài kỷ niệm mới dựng ở Westminster. Hãy bắt tay vào việc chiêu hồn đi để cuối cùng ta có thể theo chân Nguyễn Du làm văn điếu thập loại chúng sinh thay vì chỉ điếu những vết đau của riêng mình và bôi xoá vết đau của người khác” [7] .

Lại còn một thực tế thế này nữa:

“Trừ đi số chống cộng cực đoan khó nói chuyện, không hiếm trí thức Việt kiều cứ hễ nói đến chuyện trong nước, nói đến người cộng sản Việt Nam thì đều cho là ngu dốt, bảo thủ và tay sai ngoại bang! Cứ như chỉ có họ, chỉ có những người Việt ở nước ngoài mới hiểu biết, mới muốn đổi mới,mới yêu nước. Thái độ ngạo mạn rất khó hiểu đó làm sao chấp nhận được?” - Nguyễn Khoa Điềm đã có lần lắc đầu buồn bã nói với tôi như vậy.

Nhưng, trong lúc đó, hãy nhìn thẳng vào thực tế, cho đến nay, trong nước chuyện hoà hợp đã có gì thay đổi sau 30 năm?

Trương Vũ viết:

“Lúc tôi trở về, chiến tranh chấm dứt đã hai mươi sáu năm rồi. Lúc đó, vào dịp kỷ niệm 30 tháng Tư, đài truyền hình chiếu nhiều phim về ‘lính nguỵ’, bọn ‘lính nguỵ’ trông thật là ác ôn! Tôi, tên ‘lính nguỵ’ hai mươi lăm năm trở về, nhìn hình ảnh ‘mình’ trên truyền hình, cười ra nước mắt.” [8]

Khi đọc những dòng chua xót này của Trương Vũ, đọc nội dung cuộc nói chuyện giữa anh và Trần Văn Thuỷ qua cuốn Nếu đi hết biển, nhớ chuyện Thuỷ kể về sự gắn bó, đùm bọc nhau dưới bóng cây đại thụ là bà mẹ anh, sự phấn đấu tuyệt vời để có một vị trí xứng đáng trong cuộc sống ngay tại nước Mỹ xa xôi này của từng thành viên trong gia đình mà anh là một tấm gương, qua cả những bài viết điềm đạm, chặt chẽ và dứt khoát về luận lý của anh đáp lại những bài báo vu vạ dũ dằn, chụp mũ ghê khiếp của những người tự xưng là nhà văn, nhà báo trong cộng đồng về anh, về nội dung trao đổi với Trần Văn Thuỷ, về thái độ bênh vực lẽ phải và tinh thần dân chủ trong vụ Joiner Center, tôi có ấn tưọng rất mạnh về một trí thức trung thực, có đầu óc tân tiến của một nhà khoa học Mỹ mà “hồn vía” vẫn ở nơi ông bà tổ tiên Việt Nam. Chính vì thế, khi lần đầu gặp anh và gia đình tại Maryland, trong lòng tôi như có cảm giác gặp lại những người thân. Trương Vũ băn khoăn nhiều sao đến tận bây giờ, đã bước qua thế kỷ XXI mấy năm rồi, mà không ít người có vị trí và “đầu óc” trong nước, kể cả ở Hội Nhà văn, vẫn không thay đổi thái độ khi cho rằng hễ ai cứ có ý kiến, có suy nghĩ khác với lãnh đạo là phản động, là chống nhân dân, đúng y chang loại cực đoan trong cộng đồng, hễ có bất cứ ý kiến, việc làm nào trái mắt trái tai họ, thảy đều là “cộng sản nằm vùng”! Mà họ không chịu biết rằng, một trong những sự thông minh của loài người là luôn sẵn có những tư duy phản biện, những ý kiến bất đồng với mình, khác nhau để thêm mạnh chứ không để chia rẽ (hoà nhi bất đồng).

“Khi tôi nói chủ nghĩa cộng sản, mà các mô hình đã đổ sụp ở thế kỷ trước, không phải là giải pháp tốt nhất cho sự phát triển của đất nước, tại sao không chịu hiểu rằng không có nghĩa là tôi chống Nhà nước hiện nay mà là đóng góp vào tư duy tìm đường đi của đất nước?”

Tôi chia sẻ những suy nghĩ lành mạnh đó của Trương Vũ. Anh ủng hộ nhiệt tình việc gặp gỡ, giao lưu giữa các nhà văn trong và ngoài nước, tạo một chiếc cầu nối tình cảm trong việc hoà hợp hoà giải dân tộc. Anh mong có một cuộc gặp gỡ, đóng góp trí tuệ, của đông đảo văn nghệ sĩ, trí thức tiêu biểu trong và ngoài nước, một hội nghị Diên Hồng của trí thức Việt Nam.

“ Nhiều người hy vọng vào lớp trẻ ở hải ngoại sẽ dễ dàng hoà hợp với trong nước hơn, sẵn sàng đem hiểu biết của mình về đóng góp cho đất nước vì chúng nó không bị ám ảnh quá nặng nề bởi quá khứ đau buồn của cha mẹ chúng. Điều đó đúng, nhưng cũng… không đúng” - Thấy tôi ngạc nhiên, Trương Vũ vẫn chậm rãi diễn đạt suy nghĩ hình như đã lâu của mình – “Bọn trẻ sẽ có những yêu cầu về dân chủ cao hơn, về cách làm việc khoa học hơn lớp cha ông chúng và, dĩ nhiên, không “thể tất”trong va chạm khi tiếp xúc với trong nước như cha ông chúng.” - Dừng lại hồi lâu, Trương Vũ mới nói tiếp – “Và đặc biệt, chúng không có sự… không biết dùng chữ gì cho đúng đây…, vâng, không có sự ‘da diết’, ‘đau đáu’ về quê hương như những người lớn tuổi. Anh có biết rằng,có những người chống cộng quyết liệt, công khai, nhưng rồi không nén chịu nỗi nhớ quê, đã tìm cách ‘lén’ về thăm nhà mà cố không cho ai biết! Trong nước có biết nỗi niềm đó để thể tất những việc tuế toái mà họ gây ra không?”

Tôi nhớ tại một hội nghị của Hội Nhà văn mà tôi được mời tham dự, khi có ý kiến một số tác giả tiêu biểu nhất của văn học Việt Nam ở nước ngoài cần có mặt trong Bảo tàng Văn học Việt nam sắp xây dựng xong thì một nhà văn có trách nhiệm trong việc này đã tuyên bố với giọng rất “lính tẩy” vốn dĩ của anh ta: “Kẻ nào đã không tham gia trong hai cuộc kháng chiến chống ngoại xâm thì cho ‘de’ ra ngoài!”

Khi có ý kiến phản bác và cho rằng, Hội Nhà văn trong hoạt động của mình, cần tích cực góp phần đoàn kết, hoà hợp dân tộc thì một nhà thơ nổi tiếng lại cho rằng việc đó nên để… cho Mặt trận Tổ quốc làm! Và cũng chính nhà thơ này, khi có nhiều ý kiến trong cuộc bàn thảo đó, cho rắng số tác giả tiêu biểu ở ngoài nước cần phải được công nhận thì lại đề nghị Chủ tịch Hội Nhà văn nên tham khảo ý kiến của… A25 (An ninh văn hoá) đã!

Rõ ràng ở đây không phải là sự “nhầm lẫn” trách nhiệm giữa các lãnh vực công việc mà là sự ngạo mạn mạo danh cách mạng và sự khiếp hãi quyền lực đã “thành hơi thở vào ra” của những con người này mất rồi!

Cách đây gần mười năm, con gái tôi bị một tai nạn khủng khiếp. Các bạn nhà văn, nhà thơ Mỹ mà tôi quen biết đã ra sức vận động, quyên góp để cháu được qua Mỹ chữa trị. Bây giờ, vết thương của cháu đã chữa được phần lớn, cháu đã lấy được bằng Master và đã có gia đình hạnh phúc với một chàng trai Mỹ nhân hậu và đã có một đứa con trai đầu lòng tuyệt vời. Khi tôi đang viết những trang này tại nhà cháu thì nhận được thư của một người bạn thân của tôi từ Việt Nam gửi qua. Bức thư khiến tôi ngẩn ra: “Bây giờ người bạn lớn của gia đình anh lại chính là kẻ đã giết chết ba mẹ em, khiến em, và chính anh nữa, mang thương tật suốt đời! Vậy mà anh lại đang hào hứng đi tuyên truyền hãy quên hận thù!”. Ôi chao, khó làm sao để xoá đi vết thương quá khứ trong lòng người!

Lữ Phương đã đúng khi anh viết:

“Thật đáng buồn, trong khi hai cựu thù chính yếu của cuộc chiến tranh 1954-1975 đã quan hệ lại bình thường thì với người Việt Nam mọi chuyện vẫn còn như xưa… Tình trạng căng thẳng kéo dài ấy chắc chắn không mang lại một chút lợi ích nào về mặt tinh thần cho những người Việt Nam khắp nơi,dù thuộc bên này hay bên kia, dù trong nước hay ngoài nước. Nó chỉ có tác dụng làm ung thối cái không gian văn hoá của mọi người, bắt đông đảo những con người bình thường ở hai bên,không màng đến ý thức hệ,hoặc không coi ý thức hệ là cái vì nó mà người ta phải bắn giết nhau - trong đó rất đông là lớp người trẻ tuổi sinh ra trong thời kỳ sau chiến tranh - phải hít thở cái không khí truyền thông đầy khói súng của hai bên, tràn ngập những ngôn ngữ thoá mạ, chửi rủa,bôi nhọ, sỉ vả, những thứ ngôn ngữ kết dệt bằng bịa đặt, vu khống, bất chấp sự thật, bất chấp lý trí… những thứ chữ nghĩa của những người tìm mọi cách đào bới từ cuộc chiến tranh đã qua những yếu tố hận thù để tiếp tục cuộc chiến tranh mang tên “nội chiến ý thức hệ,” một cuộc chiến tranh chưa bao giờ thật sự xẩy ra trên đất nước.” [9]

Càng đọc, càng chuyện trò, càng kể cho nhau nghe những câu chuyện đơn giản mà không dễ biết và không dễ thông cảm như thế, chúng tôi càng thấy chuyện đến với nhau, chuyện ngồi lại với nhau, chuyện đọc nhau, chuyện nói cho nhau biết những suy nghĩ của mình, về mình, về bạn, về những người hôm qua còn là đối địch, về việc đối xử với nhau sao cho ra con người trí thức của một đất nước văn hiến… là chuyện thật khó khăn, thật cần thiết và cũng thật rõ ràng là đã quá muộn màng. Hơn 30 năm rồi chứ ít ỏi chi nữa, hỡi các nhà văn, những tâm hồn của nhân dân!

 

*


Trong buổi sáng vừa đi vừa nói chuyện với tôi ở công viên La Fayette trước toà Bạch ốc, giáo sư Lê Xuân Khoa, người có công lớn trong việc đấu tranh để chính quyền Mỹ ban hành những chính sách thuận lợi cho cộng đồng người Việt định cư sau 1975 và đang viết về lịch sử cộng đồng sau tập 1 cuốn Việt Nam 1945-1995, nói rằng ông không bi quan về việc hoà hợp giữa người Việt trong và ngoài nước, cho dù còn nhiều trắc trở, cam go. Ông cũng cho biết mình sắp có chuyến về Việt Nam trong những ngày tới.

“Số cực đoan trong cộng đồng mà chúng tôi gọi là loại ‘hết thuốc chữa’ lẫn số bảo thủ quyết liệt trong nước chỉ là số ít mà thôi. Đa số, cho dù tạm thời thầm lặng, vẫn là những con người mong muốn thực sự hoà hợp, hoà giải để xây dựng đất nước dân chủ và giàu mạnh, dù đề xuất giải pháp còn khác nhau. Ngay với trong nước, nếu có dịp, tôi đều góp những ý kiến thành tâm. Có lần tôi hỏi một vị lãnh đạo rằng, trong mười điều tôi góp thì các vị tiếp thu được được bao nhiêu. Vị đó nói, chừng… hai điều và hẹn tôi lần sau nếu gặp xin được nghe tiếp. Tôi cười mà rằng: góp mười điều mà đến tám điều vô ích thì gặp làm gì cho mất thời gian của anh và của tôi, thì ông ta nói, ấy chớ, tám điều chưa tiếp thu được nhưng với chúng tôi đều có ích! À, chưa tiếp thu mà vẫn thấy có ích đã là tốt rồi phải không anh?” - Ông cười, tiếng cười sảng khoái của một ông già khoẻ mạnh và đẹp lão ở cái tuổi gần 80.

Các nhà văn có chia sẻ tâm sự này của Trần Trung Đạo không:

“Tôi sinh ra và lớn lên ở Quảng Nam, nơi đã từng diễn ra những trận đánh vô cùng ác liệt. Phần lớn các ông anh họ của tôi, ra đi theo bên này hay bên kia, đều không trở lại. Những ngày còn bé, tôi thường đứng xem những chiếc trực thăng tải thương hạ cánh trong sân trường cấp một của tôi. Trong số những người chết trên đường đến bệnh xá, có người bên này và cũng có cả người ở phía bên kia. Họ có thể khác nhau khi còn sống vì khẩu súng họ mang, kiểu áo họ mặc, chiếc mũ họ đội, nhưng lại giống nhau khi đã chết, vẫn mái tóc đen, vẫn màu da vàng sạm nắng, và ở một nơi nào đó trên đất nước mình, những người mẹ Việt Nam vẫn ngày đêm mong ngày họ trở về trong căn nhà tranh, bên ngọn đèn dầu hiu hắt” [10] .

Và chuyện chính gia đình tôi nữa. Bà ngoại tôi sinh được chín người con, ba trai và sáu gái. Ba người con gái lấy chồng Việt Minh và theo chồng tập kết ra Bắc, ba người con gái khác ở lại Huế theo ngoại buôn bán làm ăn và đều lấy chồng sĩ quan Sài Gòn. Trong ba người con trai thì cậu út theo Việt Minh, chết hồi 1952 vì Tây bắn. Cậu thứ đi Vệ quốc đoàn nhưng ở lại không chịu ra Bắc, rồi làm việc lặt vặt chi đó cho hương thôn. Hồi Mậu Thân, cậu nhảy ra cũng làm mấy việc lặt vặt cho Giải phóng khu phố, đến khi liên quân Mỹ - Sài Gòn quay lại thì cậu bị tóm, bị đày đi Phú Quốc. Ngày thống nhất, chính quyền không cho cậu hưởng một chính sách nào vì không biết ghi cậu vào loại “bên này” hay “bên kia”! Cậu đi làm để kiếm sống, khi thì phụ thợ nề, khi thì phụ thợ mộc, khi ở nhà quết thịt cho mợ tôi làm nem chả đem bán ở chợ Vỹ Dạ. Còn cậu cả của tôi là tướng quân đội Sài Gòn bị đi cải tạo, giữa chừng vì bệnh trọng nên được về sớm, sống ở Sài gòn một thời gian rồi mất. Ôi chao, ông Trời chơi khăm con người quá cỡ thợ mộc, nói giùm tôi, nhà tôi rứa đó là “bên này” hay “bên kia”, là “quân miền Bắc” hay “quân miền Nam”? Và với bà mẹ nghèo Phú Vang đã đùm bọc tôi những ngày chiến tranh, trên cái bàn thờ bằng gỗ sứt mẻ dưới mái nhà tranh của mẹ là bốn bát nhang thờ hai người con “phía bên này” và hai người con “phía bên kia”! Những móng vuốt chiến tranh len sâu cấu xé trong tim gan bao người mẹ, trong huyết thống của từng gia đình, dòng tộc. Vậy mà hơn 30 năm rồi, vẫn còn người cố tình réo lên những tiếng “bên này”, “bên kia”, “miền Bắc”, “miền Nam” thật tàn nhẫn, như chính họ đang muốn những móng vuốt đó tiếp tục cấu xé ruột gan những con người, những gia đình bất hạnh!

Tôi không mơ hồ về một tiến trình chỉ thuận buồm xuôi gió. Chúng tôi chỉ muốn nói to lên một khát khao là đừng để kéo dài mãi một thực tế cách biệt đau lòng mà đến cả những cựu chiến binh Mỹ cũng phải kêu gọi những người Việt Nam hãy bắt tay nhau, hãy ngồi lại với nhau! Hãy vượt qua chính mình, hãy vượt qua sự thực đáng xấu hổ đó!

Nhà văn, với tâm huyết và vị trí xã hội đặc biệt của mình, lúc này chứ không phải lúc nào khác, hãy làm chiếc cầu nối hoà hợp lòng người.

 

*


Hãy bắt đầu bằng việc giao lưu giữa các nhà văn với nhau. Việc giao lưu gồm nhiều nội dung, nhưng tôi nghĩ,trước hết hãy đọc nhau và gặp nhau. Về chuyện đọc nhau thì thực trạng thật đáng buồn: nói chung, tình trạng “không ai đọc của ai” là phổ biến. Ở ngoài nước thì ngoại trừ dăm ba cuốn, vài ba tác giả chủ yếu có gây nên tranh cãi trong nước; ở trong nước thì chỉ ở những người có quan hệ với số ít đồng nghiệp ngoài nước hoặc vài nhà nghiên cứu cố gắng kiếm một ít sách từ nguồn này nguồn khác, lẻ tẻ và không hệ thống, và thường cũng đọc được rất ít, lỗ mỗ. Thật hiếm hoi những người đọc được tất cả những tác phẩm tiêu biểu ở cả trong nước lẫn nước ngoài. Trong một dịp thăm với tư cách bạn học cũ, tôi có hỏi Nguyễn Khoa Điềm rằng chỗ Vụ Văn hoá-Văn nghệ Trung ương Đảng (thuộc Ban Tư tưởng–Văn hoá Trung ương) có bộ phận nào hoặc cá nhân nào, có trình độ, được phân công đọc một số sách tiêu biểu của các tác giả hải ngoại rồi nhận định cái thần của cuốn sách, của tác giả cho lãnh đạo Ban nghe để từ đó tham mưu cho cấp trên có chính sách đúng đắn với kiều bào, trong đó có văn học hải ngoại, như khi xây dựng Nghị quyết 36 chẳng hạn, thì Điềm cười tủm tỉm và lắc đầu: Có mô ông!”. Tôi đã phải nói rằng, bên chỗ ông Hữu Thỉnh cũng không có ai làm chuyện này, bên ông cũng không nữa, sao lạ quá vậy? Không đọc đủ hai ba trăm thì đọc hai ba chục, không đọc hai ba chục thì đọc dăm mười người, mỗi người không đọc cả một vài chục tác phẩm của họ thì đọc vài ba tác phẩm tiêu biểu chứ. Không đọc thì làm sao hiểu và biết họ nghĩ gì, họ đang quyết liệt và cũng đang dằn vặt điều gì, từ đó mới có cách làm, mới có bước đi thích hợp để thực hiện nhệm vụ “đoàn kết, hoà hợp dân tộc”, để đề xuất cơ chế “xuất bản, phát hành ở trong nước một số sản phẩm văn hoá của cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài” [11] chứ.

Điềm gật gù : “Có lẽ phải nói bên anh Hữu Thỉnh lo chuyện này!”

Vẫn với giọng văn mạnh, sắc và đáo để, Thuỵ Khuê viết về vấn đề này như sau:

“… Ở khía cạnh này, văn học hải ngoại có những nét bảo thủ giống văn học chính thống trong nước: Ta đọc ta thôi. Người Việt hải ngoại không đọc hay không thích đọc những tác phẩm trong nước, nhất là những tác phẩm trong đó, người viết, sử dụng những cấm kỵ như Mỹ, nguỵ… hoặc có ý chê bai, miệt thị quân đội miền Nam… hoặc xưng tụng Bác, Đảng… Đó là bệnh chưng (Syndrome) của chiến tranh, của lịch sử, khó có thể vượt qua. Mai Thảo, Tuý Hồng tuyên bố: không đọc ‘họ’. Thế thì sao họ có thể đọc ‘ta’? Và họ và ta đều là ngưòi Việt. Chỉ khi nào người Việt vượt lên trên lịch sử, chịu khó đọc ‘nhau’… Đọc trong tinh thần đứng trên hệ luỵ lịch sử, với tâm thức bình thản, gạn đục, khơi trong,tìm hiểu những hận thù, mê chấp của một thế hệ chiến tranh, giam cầm, tù hãm trong những cắt đứt giữa đất, đoạn giao giữa người. Đòi hỏi một nền văn học Việt Nam toàn diện thế kỷ XX thông qua các giai đoạn chiến tranh, trước tiên là thực hiện việc ‘đọc nhau’. Chấp nhận những thái quá của nhau như một tất yếu lịch sử và từ đó tìm ra chân giá trị của văn học và tư tưởng - nếu có - của mỗi tác giả trong một thế kỷ mà lịch sử hung hãn đã dày xeó tác phẩm, ngộ độc văn chương” [12] .

Cho dù còn đầy khó khăn, trắc trở như vậy, nhưng tôi tin rằng, tuyệt đại bộ phận nhà văn trong nước và ngoài nước ủng hộ hoà hợp, ủng hộ gặp gỡ, giao lưu và, kể cả “đọc nhau”. Khách quan mà nói, số trí thức, văn nghệ sĩ ngoài nước đọc sách báo trong nước nhiều và dễ hơn là trong nước đọc bên ngoài. Khi ở nước ngoài, hàng ngày tôi đều tìm cách đọc báo chí trong nước. Chỉ cần vào mạng, trang Saigonbao là có đủ từ báo Nhân dân, Quân đội Nhân dân, Cộng sản, Công an cho đến VietNamNet, Thông tấn xã Việt Nam, Tuổi trẻ, Thanh niên, Tiền phong, Sài Gòn Giải phóng…, các tờ báo, hãng thông tấn, Đài phát thanh, Truyền hình… nổi tiếng trên thế giới. Những tờ báo hải ngoại nghiêm túc có không ít bài nghiên cứu và sáng tác công phu, sâu sắc và thường xuyên đăng tải những sáng tác, nghiên cứu, những ý kiến trao đổi tranh luận thẳng thắn của các tác giả trong nước như Hợp lưu, talawas, Văn, Văn học… Dĩ nhiên, cũng có nhiều tờ báo tiếng Việt của cộng đồng hải ngoại mà ngay nhiều anh chị em trong giới “mọt” sách báo ở đây cũng khuyên tôi “Anh đừng mất thì giờ đọc mấy thứ lá cải đó.” Nhưng với tôi, sự phong phú, thuận tiện, kể cả thứ báo chí “tùm lum” đó, có ích cho nhu cầu thông tin và hiểu biết. Việc trong nước chưa có cơ hội để đọc, hoặc cơ hội bị hạn chế, ở mức không cần thiết, ngay cả với những tờ báo nghiêm túc, là sự thiệt thòi đối với người đọc, đặc biệt đối với trí thức, văn nghệ sĩ trong hoạt động giao lưu và nhu cầu học hỏi. Tại sao nước ngoài “dám” có một mạng như Saigonbao mà trong nước lại không “dám” có một cái gì tương tự, dĩ nhiên có thể có chọn lọc hơn?

Khi mới gặp tôi ở Washington DC, nhà văn Nguyễn Thị Thanh Bình nói ngay: “Em đã đọc Ngoại ô Phía ấy là chân trời của anh."

Khi tôi cho biết, tuần sau tôi sẽ trích đọc và nói chuyện tại Boston tiểu thuyết Ngoại ô cũng như đã làm như vậy với Phía ấy là chân trời năm 1994, Thanh Bình đọc ngay: “Tại sao anh không phải là người tốt?” (câu đề từ “hồn vía” của tiểu thuyết Phía ấy là chân trời).

Mà hai tiểu thuyết này xuất bản từ năm 1982 và 1988 lận! Bởi nó có tại thư viện ở đây cũng như rất nhiều sách báo xuất bản trong nước có mặt khá nhiều tại các thư viện, đặc biệt là tại các thư viện của các trường đại học. Khi tập sách Nhật ký Đặng Thuỳ Trâm xuất bản ở trong nước mới chừng một tháng thì chị Chấn ở thư viện trường Harvard gọi điện báo tin cho tôi về cuốn sách đã có ở thư viện, trong đó có đoạn nói về tôi (nhắc lại thời kỳ tôi học lớp 8 với Đặng Thuỳ Trâm khi ra Bắc). Còn tôi chỉ đọc được những truyện ngắn độc đáo và những bài thơ rất lạ của Bình khi ra nước ngoài. Đối với độc giả trong nước, những thiệt thòi, những thiếu hụt này là do chính “mình” tự tạo ra, bắt “mình” phải chịu chứ chẳng ai vào đây mà bắt chẹt “mình” như vậy đụơc!

 

*


Trả lời câu hỏi của Nguyễn Mạnh Trinh “Trong văn chương anh có nghĩ có biên giới giữa người cầm bút Việt Nam ở trong nước và ở hải ngoại? Hoặc giữa người ở miền Nam và ở miền Bắc?”, Doãn Quốc Sĩ đã nói:

"Văn chương Việt Nam là văn chương Việt Nam! Đơn thuần chỉ có vậy! Những người Việt miền Bắc, người Việt miền Nam, người Việt quốc nội, người Việt hải ngoại phản ánh những gì xẩy ra qua lăng kính cá tính văn chương của từng người. Cả nền văn chương Việt Nam nói chung do đó mà có được sắc thái lung linh phong phú. Tôi hiểu biên giới trong câu trên là như vậy." [13]

Một thực tế khác, không dễ, nếu không nói là không thể, là sự hoà nhập của các nhà văn vào nền văn chương sở tại. Ngay cả những nhà văn đã thành danh ở miền Nam trước 75 cũng phải chua chát thừa nhận thực tế này.

"Trên phương diện nghệ thuật. Trên phương diện văn chương. Đối với lưu vong Đông phương. Đối với Á châu tỵ nạn. Ta với ta thôi, với họ, vô phương, mọi con đường đều chặn lấp, mọi cánh cửa đóng chặt. Võ Phiến nói Nhật Bản, Ấn Độ, Trung Hoa tới đây đã mấy đời còn đứng bên ngoài lề. Làm gì có tiếp nhận và chỗ đứng nào cho Việt Nam mới tới. Chúng, Bình Định kêu Mỹ bằng chúng, giữ đất thật kỹ. Hoạ hoằn chỉ một vài thiên tài lỗi lạc lưu vong của châu Âu lọt được vào và tạo được danh vọng tên tuổi. Da vàng tuyệt đối không, dù bậc thầy, dù thiên tài. Như vậy cho hết thảy mọi ngành, từ văn chương tới hội hoạ, từ sân khấu tới âm nhạc… Hoa Kỳ rộng rãi tiếp nhận người tỵ nạn thế giới vào xứ sở mình. Đồng ý. Nhưng ‘nó’ có tiếp nhận mở đường, trải chiếu hoa, dâng đất đứng cho văn học nghệ thuật tỵ nạn hay không, đó lại là chuyện khác. Võ Phiến hiểu rất rõ điều đó. Câu trả lời của ông là không. Cho những người làm văn học nghệ thuật ta tới đây, chưa tạo dựng nổi một tầm vóc với thiểu số mình đã vọng động tưởng cho mình một tầm vóc quốc tế hư ảo lố bịch…” [14]

Và chính thực tế người đọc tiếng Việt, tác phẩm viết bằng tiếng Việt ở nước ngoài ngày càng giảm sút là một thực tế nhức nhối nữa của không ít nhà văn Việt Nam ở hải ngoại, khiến họ ngày càng hướng về độc giả nơi quê nhà. Nguyễn Ngọc Bích trích lời Nguyễn Mộng Giác mà ông đồng tình:

"Giới trẻ ở hải ngoại có tham gia vào hoạt động chữ nghĩa không? Và ông trả lời là không. Không vì nhiều lý do: tiếng Việt bập bẹ, hao hớt đi dần từ tiếng Việt thông dụng ở miền Nam trước 75, không cùng kinh nghịệm với đa số những con người còn đọc tiếng Việt ở hải ngoại, trong khi đó thì dù có internet, nói chung, chúng ta vẫn chưa viết cho người đọc trong nước. Theo ông, nhận thức ấy là then chốt để giải quyết tình trạng lão hoá trong sinh hoạt văn hoá hiện nay ở hải ngoại.” [15]

Hy vọng nhà văn sẽ là, và nhất định là, những người chia sẻ đầu tiên tâm sự của cựu Thủ tướng Võ Văn Kiệt:

“Ba mươi năm qua, có những bà mẹ ngày ngày thắp hương cho những người con của mình, người là chiến sĩ giải phóng đã hy sinh, người là lính của chế độ Sài Gòn đã tử trận. Phải chăng đã đến lúc chúng ta cần thấu hiểu tâm tình của người mẹ Việt Nam, cùng thắp nén nhang cầu cho linh hồn của những người con của mẹ được siêu thoát” [16]

Đêm ở lại nhà bác sĩ Tôn Thất Chiểu ở Washington DC hè năm 2005, chúng tôi cùng nhau chia sẻ những băn khoăn về ước vọng hoà hợp lòng dân để hưng thịnh đất nước, về chuyện đồi Vọng Cảnh, nhắc tới chuyến về thăm quê hương của thầy Thích Nhất Hạnh mà anh Chiểu được tháp tùng. Rồi anh ước mong sao có một lễ cầu siêu cho mấy triệu người đã chết vì chiến tranh,dù bên này hay bên kia thì cũng là con của những người mẹ đau khổ như ông Võ Văn Kiệt nói đó,cũng là con dân của Mẹ Việt Nam.

"Vì một khó khăn nào đó mà Nhà nước khó đứng ra tổ chức thì hãy cho phép chúng tôi làm với tâm thành tất cả đều cầu mong cho một nước Việt Nam mạnh giàu và đồng tâm. Đó sẽ là một hành động hơn nhiều lời kêu gọi đoàn kết hoà hợp." - Giọng anh Chiểu nhỏ nhẹ, sâu lắng.

Điều anh Chiểu ước nguyện, và cũng là ước nguyện của nhiều người Việt Nam lương thiện, đã thành hiện thực trong chuyến về quê hương lần thứ hai của thầy Nhất Hạnh: ba cuộc đại cầu siêu Trai đàn Chẩn tế vừa diễn ra ở Thành phố Hồ Chí Minh, Huế và Hà Nội đã là một cái gì thật lạ, thật ngoạn mục, thật rực rỡ của khát vọng nghẹn ngào về hoà bình, về hoà hợp dân tộc của hơn 80 triệu người đầu đen máu đỏ Việt Nam, trong đó có khát vọng cháy bỏng của mấy triệu người đã chết trong chiến tranh! Còn nhiều lời lẽ, nhiều hoạt động muốn ngăn chặn ba cuộc đại cầu siêu. Tôi biết. Còn nhiều sự chống đối việc làm của thầy Nhất Hạnh với nhiều lý do. Tôi biết. Và nhiều người cũng biết như tôi. Nhưng điều tôi BIẾT hơn cả, điều mà bao người BIẾT hơn cả, là đất nước cơ hàn sẽ tan nát đến bao giờ nữa với hết bom đạn lại đến chia rẽ lòng người chỉ vì những thù hận chua xót của một thời, của sự khác biệt không tránh khỏi một thời khắc nghiệt! Nhưng đất nước Việt Nam là một, muôn đời vẫn chỉ là một. Chẳng lẽ có một người Việt Nam nào lại không công nhận điều hiển nhiên này và đó là điều quan trọng hơn tất thảy mọi lý do chống lại nó? Cần có những tấm lòng và việc làm cụ thể như của thầy Nhất Hạnh, của hàng triệu trái tim lương thiện Việt Nam trong nước và ngoài nước, cùng những đầu óc bình tĩnh và lành mạnh nhất trong chính quyền để tiến hành các hoạt động hoà giải, hoà hợp dân tộc đã quá muộn màng! Thời gian qua, hai tiếng có lẽ được nhắc đến nhiều nhất, hai tiếng được bất cứ ai hễ nói đến một giải pháp để đoàn kết dân tộc đều nói đến là hai tiếng tấm lòng. Nhưng để có tấm lòng như thế đâu có dễ dàng, nếu lòng còn bị bao thứ tham sân si cuốn hút. Nó phải phát xuất từ cái tâm của Đạo, của Nghĩa, từ cõi thiêng liêng của một phật tử thành tâm.

Năm ngoái, tôi vào thiền tu tại Tu viện Bát Nhã - Bảo Lộc một tuần, theo gợi ý của hai con gái tôi đã tham dự trước đó, điều mà hè 2005, dù có đến thăm nhưng tôi chưa thực hiện được ở tu viện Lộc Uyển, bắc Cali. Giáo lý nhà Phật và các ngôi chùa Huế vốn không xa lạ gì với tôi từ nhỏ, dù tôi không phải là một Phật tử quy y ở một ngôi chùa nào. Nhưng lần này tôi muốn một lần nữa trực tiếp hiểu và biết về cách “nhập thế” của môn phái Nhất Hạnh, từ một khía cạnh lựa chọn của riêng tôi.

Tôi đã tham gia trọn vẹn các chương trình của Tu viện đề ra cho cả khoá tu, mỗi ngày từ 4 giờ rưỡi sáng đến 9 giờ rưỡi đêm, ở xóm Rừng-Phương-Bối của thầy Pháp Bảo. Những phút giây tịnh tâm tuyệt đối giữa không gian trong sạch và yên tịnh nơi Chánh Điện lúc rạng sáng, những răn dạy điều hay lẽ phải đã “cập nhật” của Kinh Nhật tụng, những sải chân thanh thoát trong các buổi Thiền hành giữa đồi chè và cà phê như nghe được cả tiếng lá cây khẽ reo trong gió mai... khiến con người như cảm nhận được rõ ràng một điều gì, những điều gì thật lạ mà thật gần gũi, không có điều gì khó mà không làm được nếu với những tấm lòng, với những tâm thái như thế, trong cây, trong gió, trong chính ta... Tôi nhớ lại buổi nghe thầy Nhất Hạnh thuyết giảng tại Trung tâm Festival trong lần thứ nhất thầy về thăm quê hương. Thầy nói đến cả sự hay của việc nhà nước đang vận động xây dựng khu dân cư văn hoá: “Người xuất gia phải phục vụ thôn xóm, khu phố, làm sao để có an lạc, tình thương ở đó.” [17]

Thầy lại nói, chúng ta quảng bá văn hoá Việt Nam ở phương Tây mà sao ta không thể và không ủng hộ sự phát triển văn hoá Việt Nam ngay tại đất nước Việt Nam mà một đặc điểm hàng đầu của nó là văn hoá Hiếu hoà.


Tôi lại nhớ đến buổi nghe thầy Huyền Diệu thuyết giảng tại Học viện Phật giáo Huế. Thầy Huyền Diệu sôi nổi, hoạt bát hơn thầy Nhất Hạnh trong lúc thuyết giảng, nhưng nội dung thầy truyền đến cho người nghe vẫn là điều mà tôi đâ nghe từ thầy Nhất Hạnh: phải biết yêu thương con người, yêu thương đồng loại, yêu thương đồng bào, yêu con sông, ngọn núi, yêu cả cái thung lũng đầy rắn rít của xứ Nepal hẻo lánh... Phải có lòng yêu thương cao cả đó thì đàn Hồng hạc cao sang mới tụ tập tới làm bạn với thầy và thầy mới đủ sức “vào hang cọp” là trung tâm chỉ huy quân phiến loạn thuyết phục, Thầy mới cả gan vào tận Hoàng cung để thuyết phục. Thuyết phục gi? Thuyết phục sự hiếu hoà, thuyết phục con người Nepal hãy yêu lấy con người và đất nước Nepal! Bằng tấm lòng yêu thương kỳ lạ đó, thầy đã góp phần to lớn đem lại hoà bình cho xứ sở Nepal đau khổ. Thầy đã kêu lên: chuyện xứ Nepal vậy, còn xứ ta sao giờ? Người Việt Nam không thể yêu người Việt Nam sao, người Việt Nam không thể cùng yêu xứ sở Việt Nam hay sao? Vì sao lại có chuyện kỳ lạ đến như thế?

Tiến trình hoà giải, hoà hợp dân tộc Việt Nam sẽ rất cần những tấm lòng,những bàn tay,những đầu óc như của thầy Nhất Hạnh, thầy Huyền Diệu.

Và các nhà văn, hơn ai hết, phải là người ủng hộ nhiệt tâm, ủng hộ bằng việc làm cụ thể, những tấm lòng như thế, những bàn tay và đầu óc như thế.
 


[1]Nguyễn Khoa Điềm, “Bốn nhà văn Mỹ xông đất Hội Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên - Huế” Báo Tiền phong số Xuân 2007
[2]Hoàng Khởi Phong, Cây tùng trước bão, Thời văn, California 2001.
[3]Trương Vũ, “Lối mòn của tâm thức”, talawas 3/9-4/9/2004 http://www.talawas.org/talaDB/suche.php?res=2745&rb=0307
[4]Nguyễn Gia Kiểng, “Thời điểm của một xét lại bắt buộc”, Thông luận Online ngày 13/6/2007, http://www.thongluan.org/vn/modules.php?name=News&file=article&sid=1881
[5]Dốc Thượng, “Sự trong sáng và minh bạch của Việt Weekly trong vai trò truyền thông”, Việt Weekly online số ngày 14/6/2007, http://65.45.193.26:8026/cms/acct/vietweekly/issues/vw5n25/minhBach.html
[6]Theo Lê Xuân Khoa trong Việt Nam 1945-1995, NXB Tiên Rồng, Maryland, miền Nam chết 100.000 quân (ông Nguyễn Xuân Vinh nói tại Washington DC ngày 30/4/2005 thì lính miền Nam chết 260.000), nửa triệu dân; miền Bắc chết hơn 1 triệu quân và cán bộ, 2 triệu dân.
[7]Nguyễn Võ Thu Hương, “Quên và nhớ: Người Việt trên thế giới, chúng ta là ai?”- talawas ngày 16/7/2004, http://www.talawas.org/talaDB/suche.php?res=2406&rb=0307
[8]Trương Vũ, “Lối mòn của tâm thức”, bài đã dẫn
[9]Lữ Phương, “Chiến tranh Việt Nam: chủ quyền quốc gia, xung đột ý thức hệ và hoà giải dân tộc”, talawas 30/4/2005, http://www.talawas.org/talaDB/suche.php?res=4595&rb=0307
[10]Trần Trung Đạo, “Ba mươi năm nỗi đau chưa thấm”, talawas 26/4/2005
http://www.talawas.org/talaDB/suche.php?res=4368&rb=0307
[11]Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện NQ36
[12]Thuỵ Khuê, “Thử tìm một lối tiếp cận…”, bài đã dẫn
[13]Doãn Quốc Sĩ, “Trả lời phỏng vấn của Nguyễn Mạnh Trinh”, Hợp lưu 35
[14]Thuỵ Khuê, “Thử tìm một lối tiếp cận…”, đoạn Mai Thảo viết về Võ Phiến
[15]“Tình hình văn học hải ngoại: khủng hoảng và giải pháp”, Nhịp sống số 10/2005
[16]Cựu Thủ tướng Võ Văn Kiệt trả lời Tuổi trẻ ngày 28/5/2005.
[17]Thích Nhất Hạnh, Trả lời phỏng vấn đài BBC ngày 31/5/2007

 ____________________________

 

5. “Hãy bắt đầu từ trong nước”

Đó là câu trả lời tức khắc, như kết quả sau bao tháng ngày suy nghĩ của anh Ngô Vĩnh Long, giáo sư Đại học Maine, khi tôi hỏi: “Theo anh, bây giờ chuyện hoà hợp dân tộc, hoà hợp các nhà văn với nhau nên bắt đầu bằng việc gì?” Anh về Boston để chuẩn bị ngày mai sẽ cùng giáo sư nổi tiếng Noam Chomsky nói chuyện về Việt Nam nhân ngày 30/4/05 tại giảng đường lớn Đại học MIT và sau đó cùng Nguyễn Bá Chung và tôi gặp gỡ, nói chuyện với sinh viên Việt Nam đang học tại Boston. Chiều đó, chúng tôi dùng cơm với nhau và bàn thảo về đề tài nói trên cho đến quá nửa đêm. Ngô Vĩnh Long nguyên là sinh viên xuất sắc và sau đó đầy triển vọng là giáo sư của Đại học Harvard, trường Đại học tổng hợp số một của thế giới. Nhưng anh lao vào cuộc đấu tranh không mệt mỏi và không nề hy sinh cả một tuổi trẻ để chống chiến tranh Việt Nam, đòi quân Mỹ rút về nước, đòi hoà bình cho đất nước thân yêu. Cuộc đấu tranh với những cuộc tuần hành có hàng chục vạn người, những cuộc chiếm giữ trường Harvard, Tổng lãnh sự quán Sài Gòn… của cả người Việt và Mỹ, mà Long luôn ở hàng đầu, qua những câu hỏi của chính sinh viên Mỹ nối nhau hỏi anh và giáo sư Noam Chomsky và sau đó là của sinh viên Việt Nam với anh, với Chung và tôi, dường như đã là chuyện đời xưa đối với họ. Và anh đã phải trả giá: bị đẩy ra khỏi giảng đường Harvard, nơi mà ngay biết bao giáo sư Mỹ ao ước, có lúc đã phải đi quét sơn cho các nhà vào mùa hè để có tiền tiếp tục hoạt động... FBI thì theo kè kè bên lưng, có mặt quanh nhà anh suốt bao năm tháng. Hồ sơ mật của FBI về anh, mà một người quen lộ cho anh biết, dài đến 12.000 trang. Tìm mọi cách, luật sư và người bạn anh mới chỉ “moi” được 2000 trang. Tờ báo lớn Boston Globe đã viết bài vu vạ anh là cộng sản nên đã phải điều đình với luật sư của anh công khai đăng trên nhiều báo xin lỗi và bồi thường danh dự. Anh đã chọn giải pháp này thay vì lấy một khoản tiền lớn.

“Nhưng khi về trong nước, cũng cách nay không xa lắm đâu, có lúc tôi bị nghi ngờ coi chừng là… CIA, nên bốn năm năm trời tôi bị từ chối cấp visa về nước! Anh em chưa hiểu được luật pháp Mỹ nên cứ suy ra, nếu chống đối như vậy ở Việt Nam thì bị tóm cổ rồi chứ, sao bọn FBI không cùm tôi mà cứ cho đấu tranh, chửi bới chúng nó suốt mấy chục năm trời vậy?” - Long cười rồi lại hăng hái – “Sở dĩ tôi nói, về việc hoà hợp hoà giải, phải bắt đầu từ trong nước với ý nghĩa, trong nước cần CHỦ ĐỘNG thì mới có sức thuyết phục. Chứ đến loại như Nguyên Ngọc mà còn bị rầy rà, loại như bọn tôi trong chiến tranh thì được hoan hô mà hết chiến tranh lại bị nghi ngờ, đối xử có lúc mất tình mất nghĩa thì làm sao những người có ‘ân oán’ với Nhà nước, có lúc đã dính vào uỷ ban này uỷ ban kia chống cộng sản… lại tin mình đại nhân, đại nghĩa. Ngay đối với Chung đây cũng là một ví dụ.”

Lại nói tới Nguyễn Bá Chung. Con người đã nhiều năm nay gần như say mê chỉ với sách vở về Việt Nam, về văn hoá Việt Nam, luôn ao ước một Việt Nam giàu mạnh và tự do, mà vì nó đã phải bỏ hết công sức tiền của thời gian, lần lượt mất gần hết gia sản; con người luôn hết mình với bè bạn văn chương nghệ thuật Việt Nam qua: Nguyễn Khải, Nguyễn Quang Sáng, Nguyên Ngọc, Nguỵ Ngữ, Nguyễn Huệ Chi, Hoàng Ngọc Hiến, Lê Minh Khuê, Hữu Thỉnh,Trần Đăng Khoa, Nguyễn Quang Thiều, Tô Nhuận Vỹ, Phạm Tiến Duật, Nguyễn Duy, Ý Nhi, Lê Lựu, Bảo Ninh, Tô Đức Chiêu, Lâm Thị Mỹ Dạ, Trung Trung Đỉnh, Lý Lan, Minh Ngọc, Trần Văn Thuỷ, Đặng Nhật Minh, Đỗ Minh Tuấn, Nguyễn Quyến…; con người đã bị cộng đồng chống cộng cực đoan đánh nghiêng ngả suốt mấy năm trời với vu cáo “Cộng sản nằm vùng” khiến hạnh phúc riêng suýt bị tan vỡ; con người đã in trong nước đến ba tập thơ, dịch tác phẩm của nhiều nhà thơ tài ba nhất Việt Nam và vừa hoàn thành việc dịch ra tiếng Anh tuyển tập thơ thiền Lý-Trần, do giáo sư Lê Mạnh Thát đề tựa, cho một nhà xuất bản trong nước… người như thế mà không phải chỉ một lần vất vả với “cơ quan chức năng” mỗi khi về nước! Vậy mà Chung vẫn viết những vần thơ nhân ái và hoà hợp


Hãy trân trọng ngôi nhà vô uý
Ôm thương đau mọi nẻo quê nhà
Thắp niềm tin trên ngàn gẫy đổ
Đơm cội nguồn đất mẹ đầy hoa [1]


Viết tới đây tôi chợt nhớ đến Trần Vàng Sao. Chúng tôi vẫn kêu nhau bằng cái tên tục thời cùng học tiểu học ở Vỹ Dạ mỗi lần gặp nhau. Lần đó, võ sư Nguyễn Văn Dũng như mọi năm lại tổ chức ở nhà anh một cuộc rượu “của mấy thằng Tân Tỵ”. Có cả Nguyễn Quang Hà và bác sĩ Tống Văn Xuân (sau này khi về hưu rồi thì Hà nói Hà sinh năm 39 cơ, nhưng vẫn dự với anh em cho vui). Hôm đó, cu Nứt (tên tục của Trần Vàng Sao khi nhỏ, vì lão ta có một vết sẹo giữa môi trên) sôi nổi:

“Quắn (tên tôi lúc nhỏ vì tóc tôi xoăn tít), tau kể mi nghe chuyện ni. Mấy mụ bán bánh nậm bánh bèo ngoài chợ Vỹ Dạ bữa qua có việc qua nhà tau. Mấy mụ kể chuyện tau tham gia phong trào từ năm sáu mấy rồi lên rừng ra Bắc đủ cả mà vẫn bị xang bất xang bang vụ Sông Hương với ‘làn gió độc’ chi đó. Hồi nớ mấy mụ phục và sợ tau lắm. Rồi mấy mụ bình luận, ‘bây giờ chú thua xa bầy tui vì không có tiền ăn bánh, mua nước mắm thì mua bì một ngàn!’ Rồi mấy mụ cười toà loà ra, tau cũng cười theo mà ứng khẩu diễn ngay ý của mấy mụ bằng hai câu thơ ‘mi theo cách mạng quá trời, bây giờ nghĩ lại đã đời mi chưa!’. Mấy mụ càng cười ngả nghiêng, hẹn trưa mai ra chợ mấy mụ sẽ đãi tau một trận Ít-Bèo-Nậm-Lọc!”

Hồi cuối năm ngoái, khi vô Thành phố Hồ Chí Minh, tôi có dịp ngồi chuyện trò mấy buổi với hai anh Trần Trọng Thức và Chánh Trinh (Lý Quý Chung). Tôi biết và quen hai anh từ hồi hai anh còn làm ở báo Tuổi trẻ. Trần Trọng Thức thân tình với tôi hơn vì nhiều mối quan hệ riêng chung, hay ngồi “đấu láo” (từ của Thức) với nhau mỗi lần có dịp. Anh là một nhà báo giỏi, lịch lãm và nhân hậu. Tôi thích anh vì ở anh ý tưởng luôn rõ ràng, mạnh mẽ nhưng không bao giờ quá khích. Thức từ tốn nói:

“Hai mươi chín năm nay mình chưa bao giờ có ‘vấn đề’ chi với chế độ. Nhưng 29 năm làm báo dưới chế độ mới vẫn không ‘gột’ được cái ‘vết’ làm báo bảy năm dưới chế độ cũ. Mình cảm nhận rất rõ điều ấy từ lòng tin nơi lãnh đạo. Mà bảy năm làm báo không phải chống cộng, có bài còn được trong ‘R’ trích trong tài liệu tuyên truyền, dẫn chứng như một biểu hiện chống đối chế độ Sài Gòn đó nha. Vậy thì nên nói sao đây về chuyện hoà hợp mà Vỹ hỏi?…”

Và Chánh Trinh. Lần đó, do kẹt một chương trình bình luận bóng đá quốc tế cho đài truyền hình Bình dương nên anh đến trễ. Chỗ hẹn là quán Café nhỏ mà sang của con gái anh tại một cao ốc trên đường Nguyễn Thị Minh Khai. Chúng tôi vừa ăn trưa vừa nói chuyện. Tôi có một kỷ niệm với Chánh Trinh. Mùa hè năm 1994, tôi cùng Phạm Tiến Duật, Nguyễn Quang Thiều, Trần Đăng Khoa qua dự Hội thảo văn học viết về chiến tranh do WJC tổ chức, đúng dịp Cúp Bóng đá Thế giới. Các bạn người Việt ở Boston mua vé chợ đen cho chúng tôi đi xem trận Argentina gặp Nigeria. Ngay sau trận đấu, Maradona bị phát hiện dùng doping. Giữ lời hứa trước lúc qua Mỹ, tôi viết ngay một bài gửi về cho Chánh Trinh, lúc đó đang phụ trách trang thể thao của báo Lao động. Và Chánh Trinh cho chạy tít lớn ngay góc trang nhất: “Tôi xem trận bóng cuối cùng của Maradona! - Bài của Tô Nhuận Vỹ gửi về từ Mỹ”.

Nhưng lần này tôi nói với Chánh Trinh rằng, tôi muốn nói chuyện không chỉ với nhà báo Chánh Trinh mà còn muốn nói chuyện với ông Lý Quý Chung nguyên Tổng trưởng Thông tin của Chính quyền Dương Văn Minh nữa. Anh cười rất tươi và “OK”. Lý Quý Chung nói nhiều và tôi nghe là chính. Anh chân thành và thẳng thắn.

“Tàu làm công tác ‘chuẩn bị tình huống’ tốt hơn ta. Suốt 29 chín năm, tôi luôn được đối đãi tử tế, trừ một vài việc nhỏ không đáng kể, nhưng tôi biết, tôi vẫn chưa thực được tin cậy. Tôi mà ở bên Tàu thì tôi vô Đảng rồi! Khoảng đầu những năm chín mươi, ông Võ Văn Kiệt nói với tôi rằng, sẽ có người ngoài Đảng làm Bộ trưởng. Nhưng mãi không thấy. Võ Tòng Xuân không làm được Bộ trưởng Nông nghiệp à?”

Trong suốt câu chuyện, Lý Quý Chung nhắc nhiều tới ông Võ Văn Kiệt, người mà anh có cảm tình và sự quý trọng đặc biệt:

“Khi biết tôi đang viết hồi ký, dĩ nhiên có nói tới ‘lực lượng thứ ba’, ông dặn: ‘Phải viết thật kỹ nha. Không được quên họ.’ Sau năm 1975, lực luợng đó coi như bị ‘de’ rồi mà ông cựu Thủ tướng còn có suy nghĩ thuỷ chung và nhân ái như vậy, quý hoá quá chứ.”

Tôi đồng ý với Ngô Vĩnh Long, muốn hoà hợp, hoà giải, trong nước phải là đầu tiên, là quan trọng nhất. Phải là một tấm gương sáng, thật sáng đại nhân đại nghĩa để mọi người có thể soi vào, mà noi theo. Cao Huy Thuần nói lên mong ước, và cũng là kiến nghị, của nhiều người:

“Tôi nghĩ rằng sau chiến tranh, giữa người Việt với người Việt, kẻ thua có đạo đức của kẻ thua, kẻ thắng có đạo đức của kẻ thắng. Ngày xưa ‘bất sát hạ mã chi nhân’ là đạo đức của kẻ thắng. Ngày nay nên hiểu chữ ‘sát’ một cách rộng rãi hơn. Đừng giết thể xác, đừng giết tinh thần. Cũng đừng nói thắng bại nữa: máu chảy ruột mềm. Nói ngàn lời không bằng một hành động tượng trưng cụ thể. Thiếu gì hành động như thế! She Stoops to Conquer, nhan đề đó của một cuốn tiểu thuyết trong văn chương Anh e nói lên điều tôi muốn nói chăng? Cúi xuống để chinh phục. Khiêm cung là thái độ của người quân tử. Anh nói ‘lòng tin’. Tôi nói: Khiêm cung và thành tín. Chắc cũng giống nhau” [2] .

Có ý kiến, quan điểm khác nhau nhưng đều có tấm lòng tha thiết đối với quê hương đất nước đã là quá quý, là quá đủ để có thể ngồi lại với nhau, bàn thảo chuyện trò với nhau. Chuyện đó đâu có gì là bất thường mà là quá bình thường với thực tế của cuộc sống trong thế giới ngày nay, trong chính truyền thống chống xâm lược và ngay trong xây dựng hoà bình của Việt Nam. Vậy cớ làm sao các nhà văn không ngồi lại được với nhau? Cớ sao chúng ta lại không làm được điều mà Voltaire nói: “Tôi ghét câu nói của anh nhưng tôi sẽ tranh đấu đến chết cho cái quyền anh được nói câu đó!”

Ngay đến như thượng nghị sĩ John McCain, một cựu tù binh nổi tiếng trong chiến tranh cũng nói rằng, có những vấn đề còn khác biệt giữa hai bên mà Mỹ cần thúc đẩy tiến triển nhưng, “Chúng ta không cần phải làm điều này như những kẻ thù mà trên tinh thần những người bạn.” [3]

 

*


Vậy, với các nhà văn, chúng ta nên bắt đầu từ đâu? Hãy từ những việc đơn giản, chứ cũng chẳng có gì quá to tát.

Nhà văn, nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân đề xuất về việc “đọc nhau”:

“Ta nên có một bộ phận nghiên cứu cho nhập với số lượng cần thiết tất cả những gì có thể nhập được để nghiên cứu. Về nội dung có thể mình không xài được nhiều nhưng về hình thức ít ra mình cũng học thêm được một cái gì mới. Vấn đề quyết định: thử hỏi ai trong chính quyền ta làm được việc này? Hay lại giao cho con buôn mang danh cơ quan Nhà nước thực hiện? Tôi chưa tìm được câu trả lời.” [4]

Ý kiến của anh Xuân là chân thành và thẳng thắn, nhưng tôi nghĩ, có thể làm được nhiều hơn thế. Những ngày đầu hè 2007 này, anh Xuân cũng có dịp đến Boston tham gia chương trình nghiên cứu của WJC. Tại đây, nói chuyện với tôi và Nguyễn Bá Chung, anh đã đề xuất những kiến nghị mạnh mẽ để có thể có sự đóng góp nhiều hơn của những Phật tử chân chính mà các học trò của thầy Nhất Hạnh đang ở hàng đầu và có những ý kiến mạnh mẽ, thiết thực hơn để làm sao các nhà văn “trong - ngoài” có thể ngồi lại với nhau “bàn việc nước”.

Có không ít tác phẩm hay, sáng tác và nghiên cứu, của các tác giả người Việt ở nước ngoài cần đưa tới người đọc trong nuớc chứ không chỉ đến với các nhà nghiên cứu và, cần những người “xắn tay áo” nhưng không nhất thiết phải là Nhà nước, dĩ nhiên, cuối cùng cũng phải được “ông” Nhà nước ủng hộ. Nhưng tôi không tin lúc này có “ông” Nhà nước nào lại công khai không ủng hộ việc hoà giải, hoà hợp giữa nhà văn với nhau. Tôi nghĩ, để “bắt đầu của bắt đầu” và để kế hoạch có tính khả thi, trước hết, Hội Nhà văn cần có bộ phận văn học Việt Nam ngoài nước. Tham gia bộ phận này cần một số nhà văn, nhà nghiên cứu có kinh nghiệm và hiểu biết ít nhiều văn học hải ngoại, có khả năng nghe ý kiến đối thoại và đề xuất sáng kiến. Bộ phận này có mấy việc phải làm .

·       Đề xuất những tác phẩm có chất lượng của văn học Việt Nam ở ngoài nước để giới thiệu với trong nước.

·       Đề xuất và tham gia việc tổ chức các cuộc gặp gỡ, trao đổi, hội thảo về sáng tác, về học thuật và những nội dung có thể giúp đỡ nhau giữa nhà văn Việt Nam trong và ngoài nước,trước hết chú ý đến lực lượng trẻ và những nhà văn ủng hộ việc gặp gỡ, đối thoại (như cuộc gặp gỡ,trao đổi về thơ của các nhà thơ Nguyễn Thuỵ Kha, Nguyễn Trọng Tạo, Thanh Thảo, Du Tử Lê, Nguyễn Đức Tùng vừa qua mà nội dung được talawas ngày 07/6/2006 thông tin là một hoạt động thuộc đề xuất này, cần được nhân rộng ra).

Hiện nay, có một hoạt động mà nếu có đủ mặt đại biểu nhà văn trong nước và nhà văn Việt Nam ở nước ngoài thì đó sẽ là biểu hiện có ý nghĩa đầu tiên của cố gắng này, là việc giới thiệu tác giả, tác phẩm tại Bảo tàng Văn học Việt Nam.

Dĩ nhiên, những người bảo thủ truyền thống ở trong nước vốn luôn giữ thái độ “ngạo mạn cộng sản” và lực lượng chống cộng cực đoan ở ngoài nước giống nhau ở thái độ kịch liệt chống dối các nhà văn Việt Nam hiện sống ở nước ngoài có mặt trong Bảo tàng. Nhưng dù còn nhiều tranh cãi gay gắt về mức độ “có mặt”, dù còn không ít ý kiến chống đối sự có mặt, xu hướng có sức thuyết phục để dần trở thành xu hướng chung là không đồng tình với thái độ trên đây. Thái độ khoa học lành mạnh đã dần được khẳng định và cần khẳng định là:

·       Đây là Bảo tàng của văn học Việt Nam, Việt Nam của bốn ngàn năm văn hiến, chứ không dành riêng cho một giai đoạn nào;

·       Với các tác giả có thể trong quá khứ đã có tác phẩm và thái độ chống đối Đảng Cộng sản và Nhà nước, nhưng có tác phẩm có giá trị nghệ thuật và hiện tại ủng hộ sự hoà hợp dân tộc và phát triển của đất nước thì chọn tác phẩm để giới thiệu;

Ngay với tác giả trong nước đã từng tham gia kháng chiến, có tác phẩm đóng góp cho văn học cách mạng, nhưng đã và đang có những hoạt động, tư tưởng và tác phẩm đi ngược lại với định hướng của Nhà nước, vẫn không thể vứt bỏ những đóng góp của họ trước đây.

Đó là những cái nhìn tỉnh táo, thực tế.

Dĩ nhiên còn nhiều tuế toái, phức tạp để có thể vui vẻ “ngồi chung một chiếu” như vậy. Trong nước có phức tạp của trong nước, ngoài nước có phức tạp của ngoài nước. Như có nhà thơ người Việt nổi tiếng hiện ở Mỹ đã cùng anh em trong nước chọn xuất bản một tập thơ của mình (dĩ nhiên để có thể xuất bản tập thơ này, anh em trong nước đã phải “toát mồ hôi” thuyết phục không ít “cửa”). Nhưng khi tập thơ ra mắt bạn đọc, chính nhà thơ đó, không biết hãi “cộng đồng” đến cỡ nào mà đã tuyên bố với họ là anh… không hề hay biết chi chuyện này hết! Anh em trong nước tá hoả tam tinh và khi gặp lại hỏi nguyên cớ thì nhà thơ nọ trả lời tỉnh quơ: “Tôi không nói vậy để họ thịt tôi à?!”

Anh em ớ người: ở cái xứ dân chủ mà sao không có lấy chút dân chủ nào vậy cà!

Nhưng chính cái tiền lệ “trật mấu đòn gánh” này lại gây khó cho anh em đã kiên trì đề nghị “trải chiếu ngồi chung” trong Bảo tàng Văn học. Những người phản đối việc ngồi chung lấy đó làm một trong những ví dụ cho sự phức tạp của việc “đưa mấy cha” vào ngồi chung. Vẫn anh nhà văn có cách ăn nói “lính tẩy” nọ lên tiếng:

“Giả dụ, là tôi giả dụ thôi nhớ, cứ cho là chọn được bốn dăm người đi, nhưng cả bốn dăm cha đó đều lên đài lên báo tuyên bố, mà toàn đài báo Tây cả nhé, là mấy chả không thèm ngồi với mấy thằng cộng sản trong nước. Thế thì Hội Nhà văn là cái…mặt mẹt gì!”

Cho dù có những nhà văn từ chối tham gia ngồi chung chiếu (Ngay trong nước cũng có người từ chối chứ chưa kể ở nước ngoài. Và trong số nhà văn tôi quen biết ở nước ngoài cũng có người từ chối vì nhiều lẽ mà lẽ chính tôi tin là… hãi cộng đồng). Cho dù có những tác giả như nhà thơ sợ bị cộng đồng “thịt” đã nói trên kia… Nhưng may thay, nhiều nhà văn nhà thơ Việt Nam ở nước ngoài không xa lạ với đất nước như thế, không sợ bị “thịt” như thế.

Khi biết tin về dự tính của Bảo tàng Văn học, chỉ trong số các nhà văn, nhà thơ, nhà nghiên cứu mà tôi quen biết, nhiều người đã tỏ thái độ hoan nghênh “sự cởi mở, dù đã quá chậm” của trong nước. Những anh chị như Luân Hoán, Hoàng Khởi Phong, Nguyễn Thị Thanh Bình, Trương Vũ, Thuỵ Khuê, Cao Huy Thuần, Trần Kiêm Đoàn, Nguyễn Bá Chung, Trần Vũ, Đặng Tiến… Họ giới thiệu những tác phẩm theo họ là giá trị nhất của các tác giả mà họ am tường. Họ viết thư một lần và nhiều lần, một khi nhớ thêm hoặc có suy tính mới. Họ không sợ gì hết, chỉ sợ sự thiếu chính xác của trong nước và của chính mình thôi. Và đặc biệt khi được hỏi về mình, họ rất tự trọng và tỏ ra am tường tình hình trong nước. Như Thuỵ Khuê chẳng hạn.

“… Tôi chưa có tác phẩm nào ưng ý. Nhưng nếu phải chọn thì nên chọn cuốn Cấu trúc thơ,cuốn này chuyên về học thuật; có lẽ nó dễ được chấp nhận hơn,mặc dầu vẫn còn nhiều thiếu sót và cần phải hiệu đính lại. Còn các cuốn Sóng từ trường chuyên về phê bình là lãnh vực của tôi, nhưng như anh thấy trên mạng. đã có 3 cuốn, nhưng trong đó tôi viết nhiều điều rất có thể là chưa được dễ dàng chấp nhận trong lúc này” [5] .

Sau khi gửi cho tôi đọc truyện “Giáo sĩ” sâu sắc và độc đáo của mình, Trần Vũ từ Paris gửi tiếp cho tôi truyện vừa Miền Vĩnh phúc của Vũ Quỳnh Hương (ở San Jose, Hoa kỳ), Vũ viết: “Để anh hiểu thêm về văn học di dân. Chính những tác giả sống ngay trong xã hội Hoa Kỳ mới có thể viết được như thế.” [6]

Vũ Quỳnh Hương vẽ lên cái mặt trái của xã hội Hoa Kỳ mà trong đó giá trị gia đình truyền thống bị phá vỡ một cách thê thảm. Tác phẩm viết về những người già sống những ngày cuối đời ở một Viện dưỡng lão thật cô đơn,khắc khoải vì khao khát một chút hơi thở của người thân. Tôi xúc động khi đọc truyện này và thấy ngay ở Việt Nam đã xuất hiện không ít kẻ lắm tiền hoặc chạy theo đồng tiền mà bỏ bê con cái phải nuôi nấng, cha mẹ già phải phụng dưỡng và cần phải cảnh báo tình trạng này. Qua nhiều lần liên hệ, xin phép tác giả, vì tôi cũng ngại biết đâu tác giả cũng là người “hay sợ gió máy”, tôi giới thiệu tác phẩm trên tạp chí Sông Hương số Xuân 2007. Sau khi nhận được tờ tạp chí đăng truyện của mình, Quỳnh Hương gửi sự ngạc nhiên đến tôi:

“… Tôi cầm tờ báo trên tay với một sự ngạc nhiên dễ chịu. Lần trước tôi về Việt Nam (cũng khá lâu rồi) chỉ thấy báo in đẹp là những tờ báo in hình tài tử màu mè, không thấy một tờ báo văn học đứng đắn nào đẹp từ hình thức đến nội dung như Sông Hương bây giờ. Có lẽ nhiều năm qua tình hình báo chí cả nước có tiến triển, hay vì Huế là cái nôi của văn học miền Nam nên mới cưu mang sinh sản ra được một tờ báo bề thế như Sông Hương?” [7]

Và Hoàng Khởi Phong.

Là người viết văn xuôi, tôi đã “cả gan” giới thiệu một bài thơ của Hoàng Khởi Phong, bài “Ghềnh thác cho cha”, trên tạp chí Thơ của Hội Nhà văn Việt Nam. Tôi hỏi Phong có dám cho đăng mà không sợ cộng đồng “thịt” không, Phong vặc: “Ông đánh giá tôi xoàng vậy à? Nhưng, không được thêm, bớt, chữa của tôi một cái dấu phẩy, nếu Tổng biên tập muốn đăng.”

Và tôi viết lời giới thiệu bài thơ này:

“Hoàng Khởi Phong đã có nhiều thơ trước 75. Đã có rất nhiều bút ký, truyện ngắn, hồi ký, tiểu thuyết…, sau 75, sống ở Mỹ và hiện đang gấp rút hoàn thành trường thiên tiểu thuyết Người trăm năm cũ. Đa dạng như cuộc đời trầm luân của anh: từng là sĩ quan quân cảnh, thợ cơ khí, người bán xăng, nhà báo… Nhiều trang viết của anh khá dữ dội và cả… dữ tợn. Đó là văn xuôi. Còn thơ, da diết và trải lòng. Anh dữ dội mà bao dung, nhân ái. Bao nhiêu năm xa quê mà hồn vía vẫn ở một làng quê Hải Dương, nơi Nguyễn Vinh Hiển ra đời năm 1943.

Tôi đọc thơ Hoàng Khởi Phong từ trước 75, trong những ngày xe tăng Mỹ cày nát vùng cát Phú Vang và đêm sững sờ nhìn những đám cháy loang lỗ lưng chừng trời của vùng Tây Huế bị napal. Những bài thơ in roneo, vì không được cấp giấy phép xuất bản, chỉ gửi biếu bạn bè chia sẻ nỗi lòng, tập Phục hồi quyền chức làm người,mà một người bạn giáo chức Huế cho tôi mượn. Hơn ba chục năm trời đã qua, một bài thơ lạ lùng trong tập ấy cứ ám ảnh, cứ đeo lấy trí nhớ kém cỏi của tôi mãi, bài ‘Ghềnh thác cho cha’. Số phận truân chuyên, bi hùng của đất nước đã nhập vào từng làng xóm, từng gia đình, từng con người để thử thách, để giằng xé, để chia nát… nhưng hơi thở của nòi giống, lòng hiếu nghĩa với đức sinh thành và cái tâm đối với con người vẫn nguyên vẹn, dù trong xót xa cay đắng.

Qua Trương Vũ giới thiệu, mùa hè năm ngoái, tôi mới có dịp gặp Hoàng Khởi Phong tại quận Cam. Theo yêu cầu của tôi, Hoàng Khởi Phong hai lần đọc cho tôi nghe bài thơ, lần sau chậm hơn lần trước. Hoàng Khởi Phong kể rằng, anh là đứa học hành không ra gì nhất, sống văng mạng nhất trong những người con nên khiến ông già thất vọng nhất. Nhưng trong một dịp về phép ngắn, anh đọc bài thơ này cho cha trước giờ quay lại mặt trận, cha anh đã sững sờ nhìn con. Từ đó anh là đứa con mà ông thương yêu, chờ đón nhất nhà. Giọng trầm, vang của Hoàng Khởi Phongchùng xuống, nghẹn ngào. Tôi giục Phong chở tôi tới nhà thằng cháu đích tôn của ông già để kính cẩn thắp một nén nhang lên bàn thờ ông.

Tôi xin được giới thiệu bài ‘Ghềnh thác cho cha’ với bạn đọc tạp chí Thơ.

Huế tháng 8/2006

Tô Nhuận Vỹ"


Ghềnh thác cho cha

Cha mệt rồi sao không ngơi nghỉ
Cha già rồi sao còn gội nắng mưa

Con nhìn cha không thể nói được gì
Khi quá khứ cha viết bằng tủi nhục
Có phải cha đã dùng vũ khí thô sơ
Gậy tầm vông chui luồn ngõ hẹp
Tự vệ Thành không giữ nổi Thăng Long
Cha đã bỏ theo kháng chiến mùa thu bừng ngọn lửa
Cha đã kể con nghe
Về ba lô vá mộng sông hồ
Về anh lính biên khu mơ về đồng nội
Cuộc đời cha trôi trên dòng sông
Có nhiều ghềnh thác
Cha nói rằng cha ghét lính viễn chinh
Lính Lê dương bán rẻ tâm hồn
Cha chiến đấu cho chúng con được niềm kiêu hãnh
Sao cha đành bỏ lại chiến khu
Sao cha về thành
Để công lao dật dờ ra biển
Sao cha căm thù anh bộ đội áo nâu
Cha cần tiền cho con ăn học
Phải dằn lòng làm công chức héo hon
Ngày hai buổi cha chịu quyền dưới đám thực dân
Đêm nghe tiếng súng vọng từ xa cha trằn trọc
Cha dậy con phải giữ tin yêu
Độc lập hoà bình phải có tình thương làm căn bản
Bây giờ cha đã thật già
Đã dẫn chúng con qua mạch nước đen
Đã bỏ lại gia tài cha vun xới
Bây giờ chúng con đã lớn
Chúng con đi rồi ai phụng dưỡng cha
Nắng miền Nam đổ lửa
Mưa miền Nam tả tơi
Cha đã về hưu đi làm tư chức
Tháng tháng mươi ngàn nuôi mẹ nuôi em
Con không biết phải nói gì
Khi buổi sáng thấy cha dong xe ra ngõ
Áo trên người đeo chiếc thẻ ra vô
Sở của cha toàn người lạ mặt
Toàn người già toàn phụ nữ tanh ôi
Phục sức hở hang làm cha choáng váng
Nói nói cười cười làm nước mắt cha rơi
Bây giờ cha ở nhà còm cõi
Các em con rồi sẽ lớn khôn
Sẽ theo gót cha khinh bỉ lũ viễn chinh
Lũ mang quân phục mà vô tổ quốc
Lũ không đất đai nên dày xéo quê người
Chúng con đem xương máu đắp đường
Nâng gót chân cha trở về nhàn hạ
Cha cha ơi
Đã tham gia kháng chiến mùa thu
Đã làm công chức nuốt niềm tủi nhục
Đã làm tư chức chụi đựng đắng cay
Cha đã già xin giữ gìn nước mắt
Sẽ có một chiều cha lại khóc măng
Khi nhận chiếc đính bài con thường đeo nơi cổ
Để hôm nay con nhìn cha lòng buồn tức tưởi

Cha cha ơi
Cha già rồi sao không ngơi nghỉ
Cha mệt rồi sao còn gội nắng mưa

Hoàng Khởi Phong
Sài Gòn 1969


Bài thơ đã được Tổng biên tập Hữu Thỉnh giữ đúng lời hứa không thay đổi dù chỉ là một dấu phẩy cũng như để y nguyên lời giới thiệu của tôi. Anh nói với tôi qua điện thoại: “Bài thơ xúc động quá!”

Tôi kể hơi dài mấy trường hợp cụ thể như của Thuỵ Khuê, Vũ Quỳnh Hương, Hoàng Khởi Phong… để thấy rằng không phải nhà văn nào ở hải ngoại cũng xa lạ với đất nước và việc hoà hợp dân tộc. Tôi cũng nói thêm rằng, khi nhận được tạp chí Thơ giới thiệu bài thơ này cùng với nhiều nhà thơ hiện sống ở Hoa Kỳ, Canada, Úc, Pháp, Nga, Đức…, Phong viết thư cho tôi. Dòng đầu tiên là: “Lời giới thiệu của anh như thế là tuyệt vời. Ngắn, gọn và đầy đủ ý nghĩa…” [8]

Hoạt động để có thể “ngồi chung chiếu”, để góp phần vào hoà giải, hoà hợp, phần ở nước ngoài,vì không có một tổ chức tương ứng và việc làm này có khó khăn hơn ở trong nước, tôi nghĩ cần linh hoạt hơn. Ví dụ, các tờ báo lâu nay đã đăng nhiều sáng tác và nghiên cứu của các tác giả trong nước như Hợp lưu, Văn, Văn học, talawas… cần ủng hộ hai nội dung hoạt động trên bằng những sáng kiến cụ thể và thường xuyên. Hoặc các nhà văn đã từng có mối quan hệ với văn học trong nước, tự mình ủng hộ, tham gia chủ trương này, thông qua tổ chức Hội Nhà văn hoặc cá nhân nhà văn đã có quan hệ. Tôi tin rằng, những người Việt Nam cầm bút ở nước ngoài, cho dù bị nhiều áp lực, sẽ ủng hộ chủ trương này. Cuộc gặp gỡ tại thành phố Hồ Chí Minh vừa qua của cá nhà thơ Thanh Thảo, Nguyễn Thuỵ Kha, Trần Mạnh Hảo, Du Tử Lê, Nguyễn Trọng Tạo, Nguyễn Đức Tùng là một gặp gỡ thật hay. Tôi tâm đắc với câu nói của thiền sư Thích Nhất Hạnh: Con người không gắn với cội rễ, làm sao sống hạnh phúc?

Với cái Tâm trong sáng vì đất nước, vì nền văn học thống nhất của những người cầm bút Việt Nam chân chính, tôi tin là, dù bắt đầu bằng những việc nhỏ bé, các nội dung trên sẽ góp phần thúc đẩy việc lớn.


5. Kết luận

Để kết thúc tiểu luận này, tôi muốn nói đến các nghệ sĩ Lê Bá Đảng và Điềm Phùng Thị, hai nghệ sĩ Việt Nam hết sức tiêu biểu ở nước ngoài.

Lê Bá Đảng còn rất khoẻ và minh mẫn. Năm kia, vợ chồng tôi cùng anh đi nghỉ vài ngày tại khu du lịch ở Lăng Cô. Buổi sáng nhìn ông già 82 tuổi bơi như cá kình ngoài biển mà “ớn sườn” cho sức lực của mình quá. Tôi chú ý thì thấy trong việc sáng tạo của anh, có thể do ra đời ở một vùng quê nghèo thường xao xác khô cháy mỗi mùa gió Lào, xuất thân ngày ra đi của anh là một lính thợ và cái nghèo khó đến mức không có tiền mua thuốc để chữa bệnh cho đứa con đầu lòng những ngày lạnh giá năm xưa tại nước Pháp, và chỉ nhờ bức vẽ “Con mèo” mà gia đình anh tai qua nạn khỏi, có thể từ đầu là như thế, nên anh rất hay làm, hay nói đến và hay tạo ra những hạt gạo làng quê, bàn chân Giao Chỉ, vườn xanh, cây lá… “Phải làm cái gì mà thằng Tây không có, chỉ của riêng nước mình”. Và bao giờ sáng tạo của anh cũng đi đôi với việc phải thu lại đồng tiền tuơng xứng với công sức bỏ ra. Nhiều người nói anh chị rất giàu vì tranh của anh bán ra khắp thế giới và rất có giá. Tôi không chú ý và không biết điều đó. Chỉ biết rằng, lần anh về làng năm 1992, cả làng Bích La của anh ba ngày không đỏ lửa để đến ăn cơm nhà anh do anh chị mời và dịp đó anh bày tranh ở đình làng, treo trên hàng rào, móc ở cành cây… cho bà con cô bác cả đời chưa một lần lên thành phố xem tranh bao giờ xem. Và ai ai cũng khen “Chú Đảng hay thiệt!” Mà không khen sao được: anh bỏ tiền xây trường học, trạm xá, đường làng. Anh xây ngôi nhà nhỏ mà đủ tiện nghi để có thể là nơi làm ra các mẫu sản phẩm nghệ thuật đưa đi chào, ngay trên mảnh đất của cha mẹ anh. Hôm ra dự khánh thành khu nhà, tôi bần thần khi anh chỉ vào một gốc trầu xù xì mà anh vun xới lại nên vẫn còn ra lá tươi tốt: “Gốc trầu ngày xưa mạ tôi vẫn hái ăn cau trầu đó” - rồi anh chỉ vào các viên đá xanh, tròn chất ngay cạnh “Đó là mấy hòn đá kê cột nhà tôi ngày xưa, sẽ dùng lại nó đấy!” Anh nói năng bộc trực, dân dã, cứ mở miệng ra là “tôi là thằng nhà quê”, ăn thì thích nhất là về làng để cô em dâu, năm nay cũng hơn 70 rồi, nấu cho ăn những món ăn nhà quê và theo cách nhà quê mà anh luôn hít hà: “Cô em tôi nấu ăn ngon không ai bằng!” Anh cũng có những bức xúc với trong nước. Anh đã thổ lộ với tôi không chỉ một lần: “Tôi đã làm bao nhiêu việc giúp phái đoàn Mặt trận của bà Bình lúc hoà đàm, mới được tặng cái bằng khen cờ nửa xanh nửa đỏ treo ngoài nhà mà anh đã thấy đó, vậy mà sau giải phóng về nước cứ bị công an theo kè kè như theo tên gián điệp, ai chịu được!”

Nhưng đáp lại sự mong mỏi của anh em văn nghệ, của cả những người hiểu biết nhất trong chính quyền, và nhất là xuất phát từ tấm lòng luôn hướng về quê cha đất tổ của anh, Lê Bá Đảng lại về bày tranh, bày một cách hoành tráng trong Festival Huế 2002, 2004, bày ngay tại Bảo tàng Hồ Chí Minh do anh chọn. Và ngày 10 tháng 6 năm 2006, Trung tâm Nghệ thuật Lê Bá Đảng đã khánh thành tại số 15 Lê Lợi, toà nhà đẹp nhất bên bờ sông Hương, toà nhà mà Thừa Thiên - Huế đã từ chối lời đề nghị trước đó để thành lập Trung tâm Văn hoá của một cường quốc mà dành trọn vẹn cho Lê Bá Đảng. Đây là Trung tâm Nghệ thuật tạo hình đầu tiên của một cá nhân người Việt ở nước ngoài có mặt ở Việt Nam, sau Nhà trưng bày nghệ thuật Điềm Phùng Thị, nhưng hoành tráng, thoáng rộng hơn. Trung tâm được giao toàn quyền cho Lê Bá Đảng điều hành. Tại buổi khai trương, Lê Bá Đảng ký giấy tặng nhân dân Thừa Thiên - Huế 108 tác phẩm trưng bày đợt 1 trong toà nhà và những ngày sắp tới của hè 2007, lại đúng vào dịp 10 tháng 6, Lê Bá Đảng sẽ trao tặng tiếp số tác phẩm vừa chuyển từ Paris về.

Còn chuyện Điềm Phùng Thị. Tôi có dịp gần gũi và gắn bó với chị Điềm Phùng Thị kể từ ngày chị quyết định xây dựng Nhà trưng bày tác phẩm tại Huế. Nhà điêu khắc Việt Nam nổi tíếng nhất ở phương Tây, Viện sĩ thông tấn Viện Hàn lâm Văn học Nghệ thuật châu Âu, người mà các bạn Pháp ca ngợi là biểu tượng xuất sắc sự hài hoà của hai nền văn hoá Việt-Pháp… đã khiến tôi đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác và khi ra đi, chị đã để lại trong sâu thẳm lòng tôi và cả gia đình tôi niềm tiếc thương khôn xiết. Người đàn bà nhỏ bé và xinh đẹp ấy đã bỏ lại phía sau lưng tất cả cuộc sống nhung lụa của một gia đình thượng lưu quyền quý, sự giàu sang của cái nghề nha sĩ hái ra tiền ở phương Tây, bỏ qua cả những xử sự cay nghiệt một thời trong nước đối với cái lý lịch thượng lưu Tây của mình, bỏ qua biết bao nhiêu bực bội, bức xúc xảy ra hàng ngày mà cái cơ chế “bó rọ” một thời trong nước mà chị phải đương đầu cũng như bao sự lôi kéo, nỉ non và cả sự phá bĩnh của không ít kẻ chống cộng cực đoan tại Pháp không muốn có sự hiện diện rạng rỡ như vậy của chị tại Việt Nam trong suốt mấy năm trời xây dựng Nhà Trưng bày Nghệ thuật Điềm Phùng Thị tại số 1 Phan Bội Châu - Huế. Chị bỏ qua tất cả, để chỉ vì Tổ quốc Nghệ thuật. Chị đi suốt, lúc Bắc lúc Nam, lúc Pháp lúc Việt, đến tất cả những nơi nào cần đến để thuyết phục, để năn nỉ, để cãi lộn nữa, để có một sự đồng tình, để đừng cản trở, để kiếm một chỗ trưng bày xứng đáng với Huế, để có một loại đá tốt nhất có thể ở Việt Nam, để, để… với cái chân tật nguyền, với ông chồng điên tàng luôn đem theo bên cạnh, với phong thái vừa sang đài vừa cần lao, vừa nặn óc vẽ kiểu tượng vừa xắn tay đục đẽo… Có lúc tôi phát khiếp: người đàn bà đã ở cái tuổi cổ lai hy ấy lấy đâu ra sức lực phi phàm như thế? Rồi khi anh Điềm - người chồng, người bạn thân thiết nhất cuộc đời chị - ra đi, chúng tôi tưởng chị sẽ không còn sức để trụ lại nữa, vậy mà chị còn lăn xả với công việc nhiều hơn, lăn xả để vượt qua cả sự cô đơn ngặt nghèo. Có đêm, đã hơn hai giờ sáng, chị gọi điện lên nhà tôi. Tôi hoảng quá, tưởng chị gặp chuyện gì bất trắc, nhưng giọng lào thào của chị đã khiến nước mắt tôi trào ra: “Chị kêu anh Điềm mãi mà anh không về. Em xuống đây nói chuyện với chị một lúc, chị buồn quá.”

Và khi Nhà Trưng bày khánh thành, chị ký ngay biên bản chính thức: “Tặng tất cả 136 tác phẩm tại Nhà Trưng bày cho Nhân dân thành phố Huế”!

Cũng phải kể đến quyết tâm thực sự của lãnh đạo thành phố Huế và tỉnh Thừa Thiên - Huế, cho dù còn nhiều ý kiến không đồng tình, vẫn quyết định chuyển cơ quan giáo dục của thành phố đi nơi khác, để giành vị trí đẹp vào loại nhất thành phố cho Nhà trưng bày của chị Điềm và chuyển Trung tâm Festival cùng Sở Bưu chính viễn thông đi nơi khác để dành toà nhà 15 Lê Lợi cho Lê Bá Đảng. Và dĩ nhiên, đi đầu trong việc này luôn luôn là các nhà văn, các nghệ sĩ tiêu biểu nhất của Huế. Tôi còn nhớ vụ chị Điềm có nhờ bạn bè ở Pháp in giùm chị đoạn phim mà truyền hình Pháp vừa làm về chị và mới cho công chiếu, rồi gửi về để chị cho chiếu trên truyền hình Huế. Nhưng, không ngờ gần cuối cuốn phim đó, kẻ xấu đã cho chen vào một đoạn phim chống cộng rẻ tiền được dàn dựng ở nước ngoài, khoảng năm phút, nên cơ quan văn hoá thành phố Hồ Chí Minh giữ lại. Tôi và anh Mễ Chủ tịch UBND bàn với nhau và tôi vào trực tiếp gặp lãnh đạo bộ phận xuất nhập văn hoá phẩm với tư cách là đại diện Điềm Phùng Thị tại Việt Nam lúc đó. Chúng tôi ngồi xem và cùng khẳng định, chị Điềm không liên quan gì đến đoạn phim này. Anh em cơ quan quản lý văn hoá cũng tin như vậy. Và họ đã cho cắt bỏ đoạn phim mà bọn xấu đã tính hại chị Điềm, rồi trao lại cho tôi trọn vẹn cuốn phim đem về cho chị. Còn chị Điềm thì mãi sau này chị vẫn còn ngẩn ra mỗi khi nhớ lại chuyện này: “Họ hại chị mà làm chi rứa em hè?”.

Với tâm hồn trong sáng của một nghệ sĩ lớn, chị không thể hiểu sao trên đời lại có kẻ mang danh trí thức yêu nước mà có cư xử “tèm hem” như vậy.

Với riêng chị Điềm, tôi còn một ân hận mà mỗi lần nhớ tới chị tôi lại đau lòng. Lần đó, chị nói với tôi: “Em thôi việc Nhà nước để làm việc này cùng với chị đi! Một mình chị làm không nổi.”

“Việc này” là việc mở rộng cơ ngơi ở số 1 Phan Bội Châu để đủ chỗ trưng bãy thêm hàng trăm tác phẩm chị sáng tác sau này và mới đưa hết từ Pháp về, là kế hoạch triển khai vườn tượng ra vùng đồi gần lăng Khải Định, địa điểm mà chị đã cùng tôi với anh Mễ lùng sục kiếm tìm và hai triều Đại sứ Pháp đã vui vẻ hứa sẽ hợp tác, là tượng đài ở các cửa ngõ thành phố, là khu trưng bày tại hồ Tịnh Tâm…

Tôi đã không làm được điều chị mong muốn. Tôi còn mang nợ chị Điềm. Nhưng tôi tin rằng, Huế, với tâm huyết của anh em văn nghệ, trí thức ở Huế cũng như ở Pháp (trong Hội bạn Điềm Phùng Thị) và nhận thức ngày càng mở ra của những người có quyền lực, với sự trợ giúp của nhà nước Pháp… sẽ biến ước nguyện của chị sẽ thành hiện thực.

 

*


Cả thế giới đang tiến bộ mau chóng, từng ngày, chẳng lẽ chúng ta không day dứt trước cảnh “ăn sau chạy dọi” của đất nước mình? Nếu thực sự có tấm lòng với đất nước, mỗi nhà văn Viêt Nam ở trong nước sẽ làm được. Các nhà văn, các nghệ sĩ, các trí thức Việt Nam ở nước ngoài sẽ làm được, cho dù chỉ là một phần như Lê Bá Đảng, như Điềm Phùng Thị đã làm. Như Trần Văn Khê, Phạm Duy, Tôn Thất Tiết, Nguyễn Thiện Đạo… đã làm. Như Nguyễn Đức Tùng đã bày tỏ trong cuộc gặp gỡ với các nhà thơ Nguyễn Thuỵ Kha, Nguyễn Trọng Tạo, Du Tử Lê, Thanh Thảo, Trần Mạnh Hảo:

“Tôi hy vọng rằng một ngày kia tất cả những người ra đi sẽ về lại bên nhau đầy đủ, ở Hà Nội, Huế, Sài Gòn, mang theo cả những người không bao giờ còn có thể về lại được nữa. Chia xẻ và thấu hiểu, kính trọng và tha thứ. Trên chiếc chiếu của tình tự dân tộc và của thơ ca Việt Nam” [9]

Tôi xin mượn ý kiến của giáo sư Cao Huy Thuần để kết thúc bài viết này:

“… Văn nghệ sĩ hãy làm đi, đừng chờ đợi ai khác. Tự mình mở ra không gian cho mình. Nếu đến bây giờ mà văn nghệ sĩ không cùng nhau ‘khoán’ được một xã hội dân sự văn học để làm cái chuyện thông cảm nhau,’đọc nhau’, như anh đề nghị, thì chúng ta còn làm cái gì được nữa? Chuyện đó, Nhà nước coi bộ cũng muốn, cũng thấy cần thiết. Nhà nước đã muốn, anh sáng tạo ra bước đi, đó chẳng phải là chức năng của anh sao? Anh chờ ai?” [10]

Huế - Boston 2005 – 2007

 


[1]Nguyễn Bá Chung, “Thiền hành trên quê hương”, Phù Sa online 6/5/2005
[2]Cao Huy Thuần, Thư gửi Tô Nhuận Vỹ, ngày 18/8/2004
[3]John McCain – Phát biểu tại Gala dinner chiêu đãi thủ tướng Phan Văn Khải tối 22/6/2005 nhân chuyến thăm Mỹ theo lời mời của Tổng thống Bush, VietNamNet 22/6/2005, www.vietnamnet.vn/10namvietmy/chuyenthammy/2005/06/459849/
[4]Nguyễn Đắc Xuân, Thư gửi Tô Nhuận Vỹ, ngày 05/9/2004
[5]Thuỵ Khuê, Thư gửi Tô Nhuận Vỹ ngày 26/ 10/ 2006
[6]Trần Vũ, Thư gửi Tô Nhuận Vỹ ngày 20/ 10/2006
[7]Vũ Quỳnh Hương, Thư gửi Tô Nhuận Vỹ ngày 30/ 5/2007
[8]Hoàng Khởi Phong, Thư gửi Tô Nhuận Vỹ ngày 14/8/2006
[9]Nguyễn Đức Tùng, “Mừng vui còn có hôm nay”, talawas ngày 09/6/2007, bài đã dẫn
[10]Cao Huy Thuần, Thư gửi Tô Nhuận Vỹ , ngày 04/11/2006

 

© 2007 talawas