thời gian
TRONG MẮT TÔI

Trần Hữu Nghiệp

(nxb Văn Nghệ - 1993)


 

8

Đêm nghe nhạc
trên sông Măng Thít

 

Tháng Chạp 1954, thực hiện hiệp định Genève, từ miền Tây Nam Bộ, cán bộ và chiến sĩ lần lượt ra đi tập kết.  Mọi người sẽ gặp nhau trên tàu Liên Xô hoặc Ba Lan đậu ngoài khơi Vũng Tàu, từ các tàu nhỏ đưa đến. Đại đa số chiến sĩ đều đi đường ngoài, theo biển từ vàm sông Ông Đốc. Do thỏa thuận giữa ta và Pháp, một số nhỏ, rất nhỏ, gồm anh chị em đang mang bệnh hoặc có thai gần ngày sanh, được chở tới Vũng Tàu theo đường trong nội địa, để tránh mệt nhọc say sóng đang mùa gió chướng thổi già.

Tôi được cử làm bác sĩ, trưởng đoàn một đợt chuyển đi như thế, gồm trên hai tá "bà bầu" và nhiều chị em từng vào tù ra khám, hễ sóng gió trở trời là lên cơn kinh giật hay đau đớn thân thể.

Sau chín năm, kể từ mùa thu 1945, tôi được mặc đồ "đại cán" kiểu Tôn Trung Sơn, mang giày da và nói tiếng Tây thả cửa với bọn sĩ quan Pháp. Họ đón chúng tôi trên sông Cái Lớn, rồi tàu theo kinh Xà No hướng ra sông Hậu, đi xuống Tam Bình.

Mặt trời vừa lặn, chạng vạng tối rồi thì tàu chở chúng tôi ngừng lại, bỏ neo theo kinh Măng Thít. Trước mắt là cây cầu sắt bắc ngang, nối liền Vĩnh Long với Trà Vinh, trên đường quốc lộ liên tỉnh.

Theo đề nghị của anh em quân sự được cử theo giúp tôi với tư cách là y tá và cứu thương nhưng thật sự là ban cán sự Đảng, tôi tìm tên sĩ quan thuyền trưởng hỏi lý do tàu ngừng lại thình lình. Anh ta lấy tay chỉ dòng nước triều đang dằng lên chảy vào, chỉ cột tàu và cầu sắt, trả lời : "Cột tàu cao hơn mặt cầu, không thể nào vượt qua được, chờ nước ròng, tàu sẽ đi qua và theo nước xuôi dòng, hướng về kinh Chợ Gạo".

Khi tôi xuống dưới tàu, nói rõ lý do, một vài đồng chí bảo tôi phải trở lên kiên quyết đấu tranh với Pháp, đòi tiếp tục đi cho kỳ được. Đấu tranh cách nào chứ?  Khi rõ ràng là cột tàu cao hơn mặt cầu sắt?  Anh em bảo tôi viết một bức điện gởi về Ban liên hiệp đình chiến của ta đề nghị can thiệp. Nhưng gởi điện đi bằng cách nào? Anh em bảo đưa cho thuyền trưởng, bảo nó đánh giùm cho lập tức, bởi lúc ra đi, anh em đã có lệnh: Phải luôn luôn cảnh giác, đề phòng địch có thủ đoạn phá hoại hiệp định Genève, không thi hành các điều đã thỏa thuận. Tôi chống chế lại: Nhưng lệnh phải đấu tranh sao cho có lý, có lợi và đúng mức. Trường hợp này lý của ta không vững, và nhờ địch đánh điện đi khi nó đã giải thích rồi thì rõ ràng bất lợi: nó sẽ không làm giùm đâu, mà chỉ bực tức. Vậy hãy cứ chờ cột tàu xuống dưới mặt cầu, nếu tàu chưa đi ta sẽ phản đối, đấu tranh.

Lý lẽ của tôi đươc toàn thể anh chị em bệnh nhân còn lại ở từng dưới ủng hộ. Bởi có một số chị em đã lên boong tàu từ ban nãy, khi trên bờ kinh vọng ra những bài hát cải lương trầm bổng, từ một máy hát quay tay trên gió, gần mạn tàu. Nhiều bài ca, nhiều tuồng tích quen thuộc, cứ nối tiếp nhau vang lên trên mặt nước, dưới ánh trăng phản chiếu óng ánh trên ngọn dừa, trên lá chuối, hai bên bờ kinh. Cô Tư Sạng với bài Tứ đại oán, cô Năm Phỉ trong tuồng Xử án Bàng Quí Phi, rồi bài xàng xê trong Xử bá đao Từ Thọ, giọng lâm ly của Lý Đáng và Phụng Kiều. Trên bờ, chủ nhà có máy hát chắc chắn đoán rõ khách trên tàu là ai, nên đêm ca nhạc cứ kéo dài tới lúc tàu ra đi mới dứt. Dĩa hát nào cũng cho quay trở đi trở lại đôi ba lần. Đêm càng khuya, trăng càng sáng, mặt sông càng phẳng lặng thì giọng ca càng thấm sâu vào lòng người như từng giọt sương đêm thấm sâu vào cây lá đem lại mát dịu sau cơn nắng gắt. Dưới ánh đèn điện của boong tàu, tôi nhìn các chị em ngồi yên lắng nghe, có người để cho dòng nước mắt rơi xuống hòa theo nước sông trôi đi. Có lẽ nhiều người trong đó, cũng như tôi, muốn được ném trở lại trên bờ kinh xanh và ở lại quê cha đất mẹ, đinh ninh rằng cuộc ra đi này chỉ tạm thời và chúng tôi sẽ trở lại vài năm sau khi có tổng tuyển cử theo như đã quy định trong thỏa hiệp Genève.

Không thể hiểu được trọn vẹn tâm hồn người dân Nam Bộ vùng đồng bằng sông Cửu Long, nếu trong lòng mình chẳng lâng lâng lên, bâng khuâng một nỗi niềm gì đó, đặc biệt, rất đặc biệt khi nghe những câu hò hoặc sáu câu vọng cổ bồng bềnh lảnh lót rót trên dòng sông. Nhất là khi nước triều lên lóng lánh dưới ánh trăng, và từ bùn đất của mương vườn toát ra một mùi ngây ngất. Gần 30 năm đã qua kể từ đêm ấy trên dòng sông Măng Thít. Ai đó chịu khó ngồi quay máy hát suốt đêm dạo ấy, già hay trẻ, nay còn sống hay đã qua đời?

Viết bài hồi ký này, tôi muốn có dịp tỏ lời cám ơn người ấy vô tình họ đã đóng góp vào phần việc thôi thúc anh chị em chúng tôi ra đi tập kết phải mau trở lại quê hương, dù phải lội bộ vượt Trường Sơn với ba lô nặng gần 30 cân và một ruột tượng gạo.

Tôi đã suy nghĩ nhiều về cái đêm tâm hồn con người quyện chặt với âm thanh ấy. Và tôi muốn hiểu ai nặng lời phê phán nhạc điệu cải lương với lý trí đơn thuần, tức là đã xúc phạm vào những sợi tơ lòng trong tiềm thức người dân Nam Bộ. Tôi sực nhớ tới những ngày đầu của kháng chiến Nam Bộ năm 1947, có người chủ trương "cấm ca vọng cổ", vì cho đó là một bi khúc bất lợi cho đấu tranh võ trang. Chỉ thị ấy tất nhiên không mấy ai nhiệt thành bắt đồng bào và cán bộ tuân theo, bởi lẽ kháng chiến còn hàng chục chỉ thị khác về chính trị, quân sự, kinh tế phải thi hành. Cái chủ trương văn hóa "cấm ca vọng cổ" ấy đã tắt hơi sớm hơn là mùa nước rút hết khỏi Đồng Tháp Mười, trả lại đất khô cho cỏ.

Hiểu biết của tôi về âm vang của nhạc điệu cải lương, nhịp hò Đồng Tháp, nới rộng ra thêm khi từ ngày giang san thống nhất, tôi tò mò mở đài Tiếng nói Việt Nam để nghe các bài ca nhạc theo yêu cầu thính giả. Tôi vừa thích thú vừa hơi ngạc nhiên thấy số đòi hỏi bài ca cải lương do Bạch Tuyết, Ngọc Giàu, Phương Liên, Mỹ Châu...ca cứ tăng dần. Mà do yêu cầu của ai, ở đâu?  Xin thưa: của các bộ đội biên phòng miền Bắc, ở Hoàng Liên Sơn, Hà Tuyên, Cao Bằng v.v. . . Mấy năm ở miền Bắc, tôi từng ngủ đêm trên núi Sa Pa, thuộc Hoàng Liên Sơn, ở phủ Trùng Khánh thuộc Cao Bằng để nghe thác Bản Giốc ào ào nước đổ đêm trăng. Tiếc rằng những buổi chiều như vậy chưa có lần nào nghe được các bài ca cải lương Nam Bộ cùng lúc, để so sánh xem tâm hồn mình ngày nay, tuy đã già rồi, có thể phần nào hòa chung nhịp điệu với đồng bào chiến sĩ trẻ đương làm nhiệm vụ bảo vệ biên cương phía Bắc hiện nay.

(Tạp chí Tổ Quốc, số 3-1988)

Trở lại mục lục