thời gian
TRONG MẮT TÔI

Trần Hữu Nghiệp

(nxb Văn Nghệ - 1993)


 
4

Mùa thu rồi, ngày 23...

"Mùa thu rồi ngày 23, ta ra đi, tiếng kêu san hà nguy biến"...

Hàng ngàn thanh niên, cách đây hơn một phần ba thế kỷ, đã hát lên bài Nam Bộ kháng chiến, khởi đầu như thế đấy!  Nhưng đâu có phải ai ai cũng "ra đi" đúng vào ngày đó mà có kẻ trước người sau. Riêng tôi, thực quả từ giã thành phố chính xác đúng bữa sáng 23, hồi 7 giờ. Nhưng không phải tháng chín, mà tháng 10-1945.

Bởi vì chỉ từ bữa đó thị xã Mỹ Tho mớỉ lọt vào tay giặc.

Từ nhiều hôm trước, ủy ban nhân dân tỉnh đã khuyên đồng bào tản cư về nông thôn. Nhưng ít có ai chịu nghe theo: đời sống ở thành phố còn êm đềm và ngọt ngào lắm. Biết đâu trong cái việc cù lần này, không có phần trách nhiệm của chính tôi .

Số là ngót hai tháng trời, từ khi tên tỉnh trưởng bù nhìn bị hạ bệ, chính quyền nhân dân lên thay, tôi được đưa vào Ban tuyên truyền tỉnh và cử đi nói chuyện ở nhiều nơi. Trên cương vị đó, tôi đã lắm phen tuyên bố: "tới Tết, giặc cũng chưa bén mảng đến Mỹ Tho được". Nói có sách, mách có chứng, tôi kể chuyện hồi mới sang xứ này, năm 1861, cánh quân của thiếu tá Bourdais phải đi từ Sài Gòn xuống Mỹ Tho mất một tháng rưỡi trời, nhưng chưa đến Trung Lương thì thằng sĩ quan Pháp đó đã toi mạng ở Tân Hương. Ý là ngày xưa lực lượng của ta không có gì cả. Còn chừ, giặc đang bị vãy hãm ở Sài Gòn. Bí mật quân sự không thể tiết lộ nhưng "nghe đâư' ở miệt Gò Đen-Bến Lức có một sư đoàn Cộng Hòa vệ binh giàng sẵn, rồi xuống Tân An "hình như" ta cũng có một lực lượng tương đương án ngữ gần cầu.

Ở đất Mỹ Tho này tiếng Bourdais nói ra thì có sức thuyết phục lung lắm. Bởi đó là tên cái đai lộ rộng to nhất, nằm giữa trung tâm thị xã. Kể ra thời còn Cách mạng tháng Tám làm tuyên truyền không hề khó khăn phức tạp như bây giờ, nói năng phải chú ý sát đối tượng, đúng chính sách. Độ ấy cứ đứng lên đưa ra tin tức chiến thắng của ta, chửi Tây và Việt gian thả cửa, tất nhiên là "ăn tiền", đồng bào bất cứ thuộc giới nào cũng nhiệt liệt hoan nghênh, vỗ tay rôm rốp.

"Sự nghiệp" ủy viên tuyên truyền tỉnh của tôi chấm dứt ngày 23 tháng 10 là phải, bởi dù tôi có tiếp tục, nói ra chưa chắc còn ai tin. Mỹ Tho ngày xưa mất sớm, không phải do cánh quân đi từ Sài Gòn xuống, mà do ba chiến hạm của phó đô đốc Page theo đường biển lên. Tôi đã bóp méo lịch sử để củng cố cho ý nghĩ chủ quan của mình. Năm 1945; lịch sử đã tái diễn lại y như 85 năm về trước. Lính Tây đổ bộ lên cầu tàu lục tỉnh hồi 11 giờ đêm sau mấy loạt súng nổ, và đến sáng, nó đã thả bò chở theo cho lên nhai cỏ bên lề đường.

Tôi không hiểu do ai giới thiệu, với lý do nào, mà tôi đã bỏ nghề thầy thuốc đi làm tuyên truyền khi bắt đầu tham gia kháng chiến. Có lẽ anh em ở tỉnh thấy tôi có tật nói rất, to cường độ âm thanh lúc nào cũng cao hơn người đối thoại nhiều đê-xi-ben. Ở thời buổi mà chưa ai biết cái "micrô" là gì, đó quả là một ưu điểm cần chú ý. Thời bây giờ có máy phát thanh rồi, dĩ nhiên "tiếng to" không còn là ưu điểm nữa, và bà con chỉ ưa diễn giả nào không nói dài và không nói dóc. Cũng chẳng nên phiền trách bà con, bởi tâm sinh lý học đã dạy rằng: Dù ham nghe ngóng đến đâu, tính bền vững của sự chú ý cũng không lâu hơn 50 phút ở người khỏe mạnh, còn đối với người già cả, yếu đuối, thời gian càng rút ngắn càng hay, phải nói đủ ý nhưng thật gọn, không đệm vào quá nhiều chữ "nghĩa là, cũng như".

Kể ra cái tật nói to của tôi không phải bẩm sinh mà là mắc phải.  Hồi còn đi học trường quận với anh Ba Vân, trưa và tối nào tôi cũng đi đọc truyện Tàu mướn cho một bà phán mù chữ và hễnh hãng lỗ tai nghe với giá hai xu một cuốn.  Anh Ba Vân mê hát quá, nên bỏ học theo gánh luôn. Năm anh đã nổi tiếng là nghệ sĩ cải lương kiệt xuất thì tôi cũng thuộc làu Tam Quốc và Thủy Hử, khi dạy học cho y tá hoặc viết báo thường trích dẫn ra lấy thí dụ.

Do có tinh thần Cách mạng tháng Tám, nên lần này thị xã Mỹ Tho lọt vào tay giặc Pháp với một số chi tiết khác hơn thời vua Tự Đức. Các cơ quan trọng yếu từ lâu đã không còn nằm trong thành phố: Còn tôi, một trí thức đang độ choai choai về hiểu biết chính trị cũng không đến đỗi như quan Hộ đốc Nguyễn Công Nhàn, qưá hốt hoảng, bỏ thành chạy mất ba giờ trước khi quân đô đốc Page lên bờ. Tôi đã ở lại cho tới lúc im bặt tiếng súng, có tiếng bọn Tây xí xố đầy đường, sau lúc nửa đêm.

Nhưng trước đó, tôi đã băng ngang con đường nhỏ, leo rào vào bệnh viện tỉnh, đến phòng ngoại khoa, lên giường nằm nhắm mắt đắp mền như một bệnh nhân. Trong Đại Nam Nhất Thống Chí biên soạn cũng vào thời vua Tự Đức, có ghi nhận rằng, người dân miệt Bến Tre - Vĩnh Long ưa nắng, thích ăn mặn và ngon, bơi lội giỏi, thiện nghề câu cá sấu và đánh cọp. Tôi có trong huyết quản máu truyền thống của các bậc tổ tông đó, tất nhiên cũng mang theo những thuộc tính kể trên, trừ cái knoản săn cá sấu và đánh cọp thì chưa có dịp thi thố tài năng. Tôi thông cảm với quan Hộ đốc Nguyễn Công Nhàn, từ Đằng Ngoài vào, không quen bơi lội, nên phải lo chạy trước. Còn mình thì lo gì, bởi Mỹ Tho là một thành phố tứ phía sông, hồ bao bọc, chỉ có hai đường đất nối liền với Kim Sơn và Trung Lương. Giặc làm gì quen các ngõ ngách bằng tôi, đợi đến đêm tôi sẽ chuồn, lội ngang sông Bảo Định qua làng Đạo Thạnh.

Nhưng đến sáng, mọi việc đã xảy ra êm đẹp hơn nhiều. Có chị em nhân viên cho biết chắc tình hình, tôi mượn một áo bờ-lu (blouse) trắng bác sĩ, đội mũ phẫu thuật viên có thêu chữ thập đỏ rồi xách cặp da, đường hoàng bệ vệ theo đường lớn ra khỏi thành phố với một anh y tá cũng ăn mặc như vậy. Gặp hai tốp lính Pháp gác đường, hỏi bọn tôi đi đâu? Tôi trả lời với giọng nói và văn phạm gò sao cho ngon nhất: "Xóm trên có bệnh nhân cần cấp cứu"'. Họ lật xét cặp da tôi, thấy có ống nghe và bông băng thuốc men đầy đủ.  Tên thiếu úy Pháp xin lỗi, đứng chào tôi cái rụp, và mời tôi : "Xin mông-xừ đốc-tờ cứ đi đi."

Giặc tiễn đưa lễ phép là thế đấy, nhưng đến khi anh em bên ta rước về thật chẳng niềm nở chút nào. Tôi bị bắt giam trọn một đêm, tuy không đói bụng vì anh em cho ăn nhưng bị muỗi cắn thấy mồ, không nhắm mắt được.

Số là theo kế hoạch bố trí từ trước, khi có chiến sự xảy ra, tôi phải phụ trách trạm cứu thương số 3 của tỉnh, nằm bên kia sông Tiền, thuộc quận An Hóa. Ở đó, từ gần hại tuần rồi, đã có mặt sẵn một đồng nghiệp của tôi, đang nằm ngáp ruồi suốt ngày vì chưa có chiến thương nào chở đến.

Sau hai ngày cật lực lội bộ, từ Mỹ Tho lên Kim Sơn, nhờ ghe sang sông, rồi lại trở xuống Phú An Hòa, vừa đến nhiệm sở mới, tôi liền bị công an đến bắt đi. Tôi bực mình, hỏi trưởng công an xã :

- Anh quên tôi rồi ư ? Cách đây hai tuần, tôi có tới đây nói chuyện tại đình làng với anh Nguyễn Văn Tiếp, Chủ tịch tỉnh. Sau đó, các anh cho tụi tôi ăn bún với cary gà đó.

- Làm sao quên ông được vì năm ngoái tôi có chở vợ đến cho ông chích thuốc! Nhưng ông phải đưa cho tôi xem giấy chứng minh rằng ông quả là ông!

Trời đất ơi, ăn nói thật là kỳ cục? Biết rõ "tôi chính là tôi" đã đến đây ăn cơm chung với ông Chủ tịch tỉnh, Chủ tịch huyện, mà bây giờ còn hỏi giấy tờ! Giấy chứng Trần Mỗ quả thật là Mỗ, tôi không có, cho nên tôi bị giam giữ suốt buổi chiều đến sáng hôm sau, vừa lo vừa giận, khác với hôm đêm còn ở trong thành. Suốt thời gian ấy anh công an xã đi vắng, chắc là đi thỉnh thị ý kiến cấp trên, giao tôi lại cho nửa đội tự vệ với một cây sứng mút canh chừng. Nhưng đến trưa thì tôi được công an trả tự do đi về trạm y tế đóng cách đó chỉ vài trăm thước, mà không hề nhận được lời xin lỗi! Chuyện ấm ức đó tôi còn giữ lâu về sau, gặp anh em quen thân hay kể lại.  Nhưng rồi cũng có ngày chấm dứt, cho đến hôm nay mới có dịp nhắc lại trong bài hồi ký này.

Đức Phật Thích Ca Mâu Ni ngày xưa bỏ nhà ra đi mang theo thắc mắc về cuộc đời, phải trải qua nhiều năm khổ hạnh, ngồi suy nghiệm dưới gốc cây bồ đề cho tới nỗi quạ đến xây ổ trên đầu mà không hay, mới tự tìm ra cho mình lời giải thích thích đáng. Tôi may mắn hơn ngài nhlều, vì ánh sáng đã bừng lên khi tôi được học Duy vật biện chứng, Duy vật lịch sử, rồi tự liên hệ sách vở với cuộc đời.

Ở cái việc vừa kể trên có khuyết điểm là tôi chứ chẳng phải anh công an xã. Đúng là nửa tháng trước đó, tôi có đến xã diễn thuyết nói năm điều ba chuyện với ông Chủ tịch tỉnh. Nhưng đấy là lúc cả tỉnh còn yên ổn, bất cứ là ai cũng có thể đi theo nhà cầm quyền mà nói vượn nói hươu! Còn bây giờ, bên kia bờ sông Tiền là quân giặc đóng, đường chim bay chỉ cách năm cây số, pháo địch bắn tới đây rất dễ. Trần Mỗ hôm nay có còn là Mỗ cách đây vài tuần không? Giấy tờ nào chứng chắc điều ấy, cần phải trình ra!

Công an nghĩ thế là có lý. Bởi sau khi tôi đến xã ít hôm, thì anh bạn bác sĩ, cùng chung công tác với tôi ở trạm, nhân một buổi nói là đi thăm bà con ở sát bờ sông, đã dông tuốt về thành (ngoài Bắc gọi là "dinh tê"). Không ai ngờ trước được, bởi đồ đạc anh vẫn để lại nguyên vẹn.

Sau 30 năm, phải khẳng định rằng đây là một anh bạn tốt không làm gì hại cho cách mạng, săn sóc miễn phí cho gia đình của nhiều bè bạn đã ra đi. Chỉ có quả tim của anh hơi yếu, khi có nước mắt phụ nữ rót vào thì biến thành bột dẻo, nắn thành bánh gì cũng được. Chị vợ anh đã vượt qua nguy hiểm, đi xuồng ra đón anh về. Trường hợp như vậy về sau không còn là hiếm.

Triết học mác-xít lại dạy cho tôi phép biện chứng của tiếng xưng hô. Tôi gặp rắc rối ngay ở buổi đầu của cuộc kháng chiến là bởi còn được gọi là "ông", từ miệng anh công an xã. Tình cảnh sẽ dễ chịu hơn nếu tôi tụt xuống được kêu bằng "anh", và có thể hoàn toàn yên tâm khi được gọi là "đồng chí". Lúc đầu mới theo kháng chiến, tôi chưa dùng từ ngữ ấy bao giờ, cứ gọi "anh" hay "ông". Cho đến một hôm Tây kéo quân càn, đánh tới nơi, tôi đang luống cuống thì có một anh cán bộ huyện đến bảo: "Đồng chí cứ theo tôi". Sự lo lắng của tôi bỗng nhiên vơi đi một nữa và lần đầu tiên tôi cũng kêu người khác là đồng chí, rồi sau đó riết thành quen.

Sở dĩ tôi nhắc lại chuyện cũ này là bởi cho đến bây giờ, đi tham gia vô số buổi báo cáo khoa học, tôi còn thấy có anh em khởi đầu câu chuyện bằng "thưa quý vị", "thưa quý ngài". Anh em cứ nói đại đi : "Thưa anh em, thưa các đồng chí". Tôi đoán chắc là điều ấy không gây ra phản ứng nào đâu, bởi xe đã nổ máy thử rồi, thì tất nhiên nó sẽ chạy luôn ngon trớn. Duy vật lịch sử dạy rằng : Mỗi chế độ thống trị đã qua đều để lại cách xưng hô đặc thù cho giai cấp. Hai tiếng "túc hạ" (dưới chân) có lẽ là di sản của thời kỳ nô lệ xa xưa. Với chế độ phong kiến, đã sinh ra tiếng "quan" và tiếng "ngài". Từ khi chế độ tư sản, thông dụng nhất là tiếng "ông", và khi giai cấp công nhân xuất hiện trên vũ đài chính trị, tiếng "đồng chí" cũng ra đời theo cho tới bây giờ nó trên thành miệng mỗi người ở các nước xã hội chủ nghĩa. Đi vào chế độ mới mà cứ muốn mang theo cách xưng hô cổ, lắm khi bất lợi. Như chuyện này đây:

Trước Cách mạng tháng Tám, khác với miền Bắc, miền Trung, xứ Nam kỳ là thuộc địa của Pháp, dính liền với "mẫu quốc", nơi giai cấp tư sản đương nắm quyền hành. Tất cả mọi thầy thuốc đều được gọi là "ông"' (monsieur) hay "đốc tơ của tôi" (mon docteur). Xưng hô như thế là được quá rồi!  Thế mà tôi có mấy bạn đồng nghiệp quen, làm việc trong cơ quan Nhà nước, lại chỉ thích được bệnh nhân gọi mình là "quan lớn", không muốn gật đầu khi được "chào ông". Ai quá dại dột tưởng hễ làm thầy thuốc thì cứ kêu "thầy", tức đã tự ký giấy cho mình giấy xuất viện sớm khi còn đang bệnh.

Cách mạng tháng Tám đến, dành cho anh em bác sĩ nhiều cương vị đặc biệt, làm Chủ tịch, phó Chủ tịch tỉnh hay đại biểu quốc hội, như Long Xuyên, Vĩnh Long, Bến Tre v.v...

Trừ những anh em bác sĩ từng nổi tiếng muốn được làm "quan lớn" thì không ai nhắc đến . Đây cũng là một ví dụ điển hình và sự "tha hóa" cửa người trí thức thầy thuốc trước Cách mạng.

Cách mạng tháng Tám không phải chỉ uốn nắn lại cách xưng hô, mà còn đem ánh sáng soi vào mọi tác phong, cử chỉ thịnh hành ở chế độ cũ.

Hồi mới bắt đầu tham gia kháng chiến với công tác "ủy viên tuyên truyền tỉnh", đã nhiều lần tôi đứng lên diễn thuyết, và được vỗ tay, nhưng không bao giờ tôi vỗ tay hưởng ứng theo. Tôi đơ người ra mà nhận lãnh đủ!  Nào chỉ có thế, khi có một diễn giả nào đó được đột xuất mời lên phát biểu và bà con vỗ tay tán thành, thấy anh ta vừa lót thót trèo lên sân khấu lại vừa vỗ tay, tôi thấy sao kỳ cục, con người anh như ngớ ngẩn, bao đời có ai lại mình tự vỗ tay hoan nghênh mình bao giờ ?

Đi lâu với Cách mạng, về sau tôi lại làm hệt như anh. Tới bây giờ, khi có người nói chuyện xong được vỗ tay hoan nghênh mà họ quên cùng vỗ tay với cử tọa, tôi lại thấy đã xảy ra như một sự khác thông lệ. Tại sao ý kiến tôi lại đổi thay như vậy?  Vì tôi lần lần hiểu ra rằng: một trong các tiêu chuẩn của đạo đức mới là hòa mình với tập thể quanh mình, cùng vui cùng buồn, cùng hoan nghênh... Khi ta kể một việc, thuật lại một chuyện, mà cử tọa phấn khởi vỗ tay, thì chính sự việc hay cái chuyện đó gây ra chớ nào phải là cá nhân ta. Cho nên người nói cũng cần vỗ tay để hưởng ứng tình cảm cùng người nghe là hợp lý.

Hơn 100 năm về trước, Mác và Ăng Ghen trong cảo luận Bàn về tôn giáo, có nói rằng trong lịch sử một chế độ chính trị lỗi thời tự cáo phó qua hai giai đoạn mà văn nghệ biểu hiện: trước tiên là giai đoạn bi kịch, đầy lời than thở, tủi thân, hận đời; sau đó, khi mất hết thế đứng, là thời kỳ cử chỉ lời nói mang nhiều tính hài kịch, làm cho người của chế độ nhân dân đang thắng không nén được cười. Nhà văn Tiệp Khắc Julius Fucik, trong tập ký sự Viết dưới giá treo cổ khi viết câu "tôi đã sống trong niềm vui và giờ đây tôi đang chết vì niềm vui" thì cũng là lúc anh vẽ lên bức tranh buồn cười về những tên cai ngục phát xít, về các thằng bán nước. Nếu có được cách nhìn của nhà văn cách mạng đó, anh em văn nghệ sĩ sẽ thấy trong xã hội mà ta đang sống hiện nay, xảy ra hàng ngày không biết bao nhiêu việc đầy tính hài kịch. Thời Nam Bộ còn kháng chiến tôi cũng từng chứng kiến nhlều việc như vậy. Đây là một chuyện.

Dạo ấy gần Tết, hình như là cuối năm 1947, tôi đi theo nhiều "anh lớn" vào một dịp công tác. Người dẫn đường đưa chúng tôi ghé một nhà "đầy nhiệt tình với cán bộ", để ăn cơm. Nhà giàu, chủ nhân là một địa chủ, ông ta tiếp đãi chúng tôi ân cần, niềm nở. Bữa cơm thật thịnh soạn, ông lại lấy ra khui mấy chai rượu chát cất giấu từ lâu. Cơm nước xong, chúng tôi cám ơn và từ giã ra đi. Chủ nhà mùi rượu nặc nồng, tiễn ra tận ngõ, dặn dò: "Lần sau có đi ngang các ngài cứ tự nhiên ghé đây ăn cơm và nghỉ đêm. Mùa nào cũng có nước mưa tắm rửa. Hồi trước, mỗi lần quan phó tham biện tỉnh và các ông xếp mật thám đi kinh lý cũng ghé đây ở chơi với tôi!".

Tôi ớn xương sống, sực nhớ tới mấy hắc điếm trong truyện Thủy Hử đãi khách đi đường ăn uống no say rồi lấy thịt làm nhân bánh bao. Bởi trong đoàn tôi, có vài anh em từng là "trùm cộng sản" ở một vùng, lính kín Tây tìm bắt. Đi được một đoạn, đồng chí trưởng đoàn, có lẽ vừa suy nghĩ lung lắm, bỗng nói: "Các cha nội ơi! Lần sau có rủ ghé nhà ai ăn cơm nhớ phải điều tra trước nghe!".

Đi theo cách mạng, luôn luôn có được niềm vui, nên thỉnh thoảng tôi cũng làm thơ, khi nào tức cảnh sinh tình. Đây là cảnh đã gợi lên một bài thơ "tập thể" làm chung với một ông bạn luôn luôn vui tính và cũng sính văn chương.

Số là năm ấy, sau khi nghe báo cáo thời sự quốc tế và trong nước, chúng tôi chèo xuồng ra về, hết sức phấn khởi lạc quan trước tình hình mới. Bỗng đâu có tiếng máy bay do thám địch quen gọi là "con đầm già", đến quần trên dầu. Lập tức chúng tôi cho lủi xuồng vào dưới tàn cây, kiên nhẫn chờ. Bạn tôi giao ước làm trước hai câu thơ, tôi phải ngâm tiếp, nếu hay thì trên đường về sẽ được tha cho khỏi chèo. Anh ngâm :

Việc nước nghe xong mới bước ra,
Đầm tơ không sơ, sợ đầm già!

Tôi bỗng nhớ đến các bạn bè từng ra đi ngày đầu kháng chiến nhưng bỏ cuộc về thành, không phải vì sợ gian khổ hoặc bất mãn chế độ, mà chỉ bởi vừa được thơ các chị ở nhà gởi xuống bưng, có khi theo thơ kèm theo ấy một nhúm tóc đen thơm phức. Ý thơ nảy ra, tôi ngâm tiếp:

Bao nhiêu tráng sĩ mà bỏ cuộc,
Suy ra cũng bởi tại đàn bà.

Bạn tôi khen : "Ý đấy khá, nhưng thiếu tính cách đấu tranh". Rồi anh sửa lại câu chót như vầy:

Nước mắt phụ nữ, Ố là là !

Anh giải thích thêm: đúng theo điều ấy khi "bà đầm" khóc, thì cử chỉ phản đối là ông phải đưa hai tay lên cao, lắc đầu và "ố là là" (oh! lala).

Bài thơ "tứ tuyệt" năm xưa ấy, sai niêm luật và chẳng hay ho gì, để gởi đăng lên báo Văn Nghệ. Nhưng tôi cũng xin Tòa soạn cứ in lại nguyên văn, để một số anh em trí thức vừa bỏ nước ra đi thấy rằng trong xứ cũng có người rất thông cảm với họ. Hơn nữa, ở thời buổi khan hiếm thuốc men như hiện nay, nói lên một chuyện vui rất cần thiết.  Một danh sư lừng lẫy tiếng tăm ở Âu châu hồi thế kỷ 16 là Paracelse đã nói : "Khi một anh hề vào thành phố, thì việc ấy quí hơn là dắt vào mười con lừa chở đây thuốc men". Và các bạn cũng biết đấy, Lênin đã có lần nói với Gorki: "Hài hước là một phẩm tính đẹp đẽ có thể đem lại sự lành mạnh".

Tôi là thầy thuốc rất tin vào tác dụng tốt của nguồn vui trên mọi thứ bệnh tật, dù là bệnh của thể xác, của tư tưởng tinh thần, hay của cả xã hội.

Bài đã đăng Văn Nghệ TP. Hồ Chí Minh, Số 25-9-1981

Trở lại mục lục