TRẦN ĐỨC THẢO - BIỂN QUÊ HƯƠNG TRẦM TƯ TRIẾT HỌC

TS Cù Huy Chử

 

Trích: “Biển quê hương trầm tư triết học –
Hồi ký về Trần Đức Thảo của người gìn giữ Di sản triết học Trần Đức Thảo”.
Sắp xuất bản.

 

Trong di sản Trần Đức Thảo để lại, tôi thấy đầu năm 1955, khi tham gia Hội Việt-Pháp hữu nghị, Anh đã chuẩn bị hàng loạt tài liệu về di tích văn hóa Thăng Long-Hà Nội và di sản văn hóa dân tộc để giới thiệu cho các thành viên trong Ủy ban hỗn hợp đình chiến Việt-Pháp. Đây là một biểu hiện cụ thể tấm lòng yêu nước sâu sắc của Anh. Hơn nữa, Hà Nội vốn có nhiều kỷ niệm gắn bó với Anh từ buổi thiếu thời.

Về sau này tôi rất hiểu việc làm trên của Trần Đức Thảo, bởi Anh đã tâm sự với tôi những trăn trở, suy tư về nguồn gốc loài người, về lịch sử nhân loại, về cội nguồn dân tộc và thời đại Hùng Vương dựng nước. Anh từng nói với tôi: “Con người Việt Nam, dân tộc Việt Nam là nhân loại hiện hữu trên mảnh đất Việt Nam. Việt Nam sẽ tồn tại mãi mãi bởi quá trình đồng hành với nhân loại ở trong mỗi con người Việt Nam sẽ thâu thái, sẽ sống cái vốn con người nói chung của biện chứng lịch sử nhân loại ”. Vai trò của tư tưởng tiên tiến mọi thời đại, theo Anh, có sứ mạng cao cả trong lịch sử, bởi đó là cái trung giới có nhiệm vụ tiếp nhận, tiêu hóa những giá trị của loài người, của thời đại để phân giải và cấu trúc lại những giá trị truyền thống, tạo ra hệ thống mới cho sự chuyển qua. Phải kế thừa,bồi đắp, phát triển các lớp giá trị bền vững của con người nói chung để tạo ra sự phát triển bền vững cho xã hội. Tư tưởng ấy có ý nghĩa lý luận-thực tiễn sâu sắc. Góp ý kiến vào dự thảo văn kiện Đại hội VII của Đảng Cộng Sản Việt Nam, Anh đã viết: “Dự thảo cương lĩnh xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ quá độ chuẩn bị đưa ra Đại hội VII là lời đáp đanh thép đập tan âm mưu phá hoại của kẻ thù, đồng thời vạch rõ chủ trương đổi mới của Đảng, sửa chữa những sai lầm trước, kiên quyết tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, đó là xã hội trong ấy con người được giải phóng, nhân dân lao động được làm chủ đất nước, mọi người có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân, công bằng xã hội và dân chủ được bảo đảm. Chúng ta xây dựng một xã hội đạo đức,văn minh, vì lợi ích và phẩm giá con người. Phục vụ con người là mục tiêu chính của xã hội và có chương trình phát triển kinh tế xã hội. Như thế là dự thảo cương lĩnh đã bác bỏ quan niệm sai lệch của một số nhà lý luận trước đây cho rằng chỉ có quan hệ sản xuất, quan hệ giai cấp mới là căn bản. Còn quan hệ con người, vấn đề đạo đức, phẩm giá con người thì họ không chú ý,hoặc hầu như không chú ý tới. Mà chính quan hệ con người, quan hệ giá trị là một lớp không thể thiếu sót của toàn diện quan hệ xã hội, là bản chất của con người. Đây là cái lớp hình ảnh tâm thần xuất phát từ những tiếng gọi, âm chỉ hiệu của những liên hệ thần kinh ở bề sâu vỏ óc, xây dựng từ tuổi nhi đồng trong cộng đồng gia đình, hàng xóm, dân tộc, loài người(1). Bởi vậy, mỗi tấc đất của đất nước quê hương, gắn bó với các thế hệ, với thân phận con người ám ảnh trong ta không chỉ hiện tồn mà còn mờ ảo, bởi chúng đã là hiện tượng của đời sống tâm thần, nhất là lúc bình minh thức dậy và lúc hoàng hôn đến, kéo sự suy tư của mỗi con người vào quá khứ-tương lai. Cái khoảnh khắc trong khoảnh khắc dồn dập, vô tận.

Xuyên suốt cuộc đời hoạt động sáng tạo của Trần Đức Thảo là xây dựng, xác định phương pháp tư tưởng triết học về lịch sử - lịch sử tự nhiên và lịch sử xã hội, để con người, dân tộc không ngừng đấu tranh tự giải phóng, tự phát triển.

Có lẽ vì thế mà trong nhiều bức thư gửi cho các nhà lãnh đạo, Trần Đức Thảo tha thiết đề nghị cho tái bản các tác phẩm nghiên cứu lịch sử dân tộc của các Giáo sư: Đào Duy Anh, Nguyễn Khánh Toàn, Trần Huy Liệu, Nguyễn Văn Huyên, nhà sử học Minh Tranh… Trần Đức Thảo nói: “Nếu không công nhận có chân lý con người nói chung-lịch sử, để từ đó nhận thức về dân tộc và con người dân tộc, thì sẽ làm cho ngành khoa học nghiên cứu lịch sử trở thành vườn không nhà trống”.

Trong thư gửi Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh, ngày 10-1-1988, Trần Đức Thảo viết: “Vấn đề con người là vấn đề cơ bản nhất trong mọi công tác đổi mới, nhưng với điều kiện của nước ta hiện nay thì không thể nào giải quyết trực tiếp. Chúng ta chỉ có thể giải quyết gián tiếp thông qua quan điểm về Tổ Quốc xã hội chủ nghĩa. Tức vấn đề trước mắt trong khoa học xã hội là xác định quan điểm, xây dựng ý thức về Tổ Quốc xã hội chủ nghĩa. Khái niệm Tổ Quốc là trung giới để giải quyết vấn đề con người (Do tôi nhấn mạnh,CHC ). Nói Tổ Quốc có nghĩa là đất nước của tổ tiên, xác nhận tổ tiên của chúng ta như thế nào thì hiểu được Tổ Quốc và con người của chúng ta về bề sâu. Tôi thấy trước hết cần nhận thức chính xác về hàng tổ tiên đi đầu,là con người cộng sản nguyên thủy ở Việt Nam. Dĩ nhiên chúng ta chỉ có thể tìm hiểu những quy luật của xã hội và con người cộng sản nguyên thủy trên cơ sở những dữ kiện của thời khai sinh của loài người. Vận dụng những quy luật ấy trên đất nước Việt Nam ”. Cũng trong thư ấy, Trần Đức Thảo đã nhấn mạnh vai trò tích cực của “ quần chúng lao động bị bóc lột và đấu tranh chống bóc lột, các vị anh hùng xuất chúng, các giai cấp trung gian, các anh hùng dân tộc xuất thân từ những giai cấp bóc lột cà cả những giai cấp bóc lột chừng nào họ còn có vai trò tích cực đóng góp xây dựng đất nước ” (2). Đó là sự trăn trở lớn trong suy tư triết học của Trần Đức Thảo. Viết đến đây tôi lại nhớ đến lời Nguyễn Ái Quốc trong Đại hội thành Tour, Đại hội thành lập Đảng Cộng Sản Pháp, khi có đại biểu hỏi : Nguyễn Ái Quốc, anh đại diện cho ai ? Nguyễn Ái Quốc đanh thép trả lời : Tôi nhân danh toàn thể loài người kêu gọi các đồng chí hãy ủng hộ phong trào giải phóng các dân tộc thuộc địa. Tôi lý giải được câu hỏi đặt ra: Tại sao một trong những bài báo được viết đầu tiên khi về nước tham gia cuộc kháng chiến chống Pháp, nhà trí thức yêu nước ấy lại nghiên cứu về Trần Hưng Đạo, được công bố trên Tập san nghiên cứu Văn Sử Địa (2-1955), ngay sau khi Anh về tiếp quản Thủ đô.

Trước lúc đi Pháp (tháng 3/1991), Anh có tâm sự với tôi: “Mình muốn được về thăm Hà Nội, và trở lại Vũng Tàu”. Vũng Tàu là nơi vào năm 1935, Trần Đức Thảo đã có dịp đặt chân tới, khi được Toàn quyền Đông Dương thưởng chuyến đi du lịch quanh Đông Dương bằng xe lửa và xe hơi vì đã đậu xuất sắc cả hai bằng Tú tài toàn phần Toán và Sử. Vợ chồng tôi đã chuẩn bị cho Anh chuyến đi này. Nhưng vì Anh quá bận, dồn sức viết một số tác phẩm, nên dự định trên của chúng tôi không thực hiện được. Hẳn là Hà Nội và Vũng Tàu vừa hiện tồn, vừa mờ ảo, trong Anh.

Ngày 17 tháng 3 năm 1995, nhân một chuyến đi công tác Vũng Tàu, những lời tâm sự trên đây của Anh đã sống lại trong tôi, gợi lại những kỷ niệm của nhiều năm tháng gắn bó giữa tôi với Anh, gợi lại những trăn trở của Anh về dân tộc, về đất nước, về nhân loại, tôi bồi hồi xúc động, nhớ thương, cảm phục, kính trọng vô hồi vô hạn đối với Anh, nên đã viết bài thơ Đối diện hoàng hôn. Anh em ở Tòa soạn Báo Bà Rịa-Vũng Tàu vì rất quý mến Giáo sư Trần Đức Thảo, đã cho đăng bài thơ ấy trên Tuần san Chuyên đề của Báo Bà Rịa-Vũng Tàu, số Xuân Bính Tý (1996). Vì tính nhạy cảm của tình hình chung, nên anh em ở Tòa soạn đã đề nghị tôi lược đi lời đề tặng.

 

 ĐỐI DIỆN HOÀNG HÔN

 

Tưởng nhớ nhà triết học Trần Đức Thảo

(Trước lúc đi công tác tại Cộng hòa Pháp, Anh nói:

“Mình muốn được một lần thăm lại Vũng Tàu trước lúc đi xa…”)

 

Hoàng hôn Vũng Tàu trắng màu hư ảo

Hải âu bay mang nắng bay theo

Biển xanh êm chứa ngầm giông bão

Lặng nhìn mây núi tiễn đưa nhau

 

Tuổi xanh non Anh có Vũng Tàu

Lần thứ nhất cũng là lần cuối

Để mãi nỗi lòng tiếc nuối

Nhớ về Vũng Tàu Anh vui và đau

 

Chiều giã biệt Anh mơ về Hà Nội

Thăm lại Vũng Tàu trước lúc đi xa

Biển quê hương trầm tư triết học

Trời quê hương suy tưởng bao la

 

Ánh hải đăng sóng chở về đâu

Một giây lát hóa thành vĩnh viễn

Hoa đại vàng xanh mình dưới biển

Sóng xô lùa lung linh trăng sao

 

Vũng Tàu, 17-3-1995

 

Viết những dòng này, bỗng hình ảnh của Anh những lúc hoàng hôn, lại ùa đến trong tôi. Tôi nhiều lần gặp Anh trong lúc hoàng hôn, ngay cả lần gặp đầu tiên, cũng là một buổi hoàng hôn cuối Xuân rất đẹp. Hôm đó, ngày 2-4-1959, tôi cầm thư của Anh Huy Cận gửi cho Anh Trần Đức Thảo. Trên gác ba nhà 16 D, Ngõ 2 Hàng Chuối đã rêu phong, Anh đang đọc sách, có lẽ là sách triết học, mà sao tôi thấy trên nét mặt Anh có chút mơ màng. Anh nói ít, và khi mỉm cười, rất rõ chiếc răng khểnh. Không hiểu có phải vì đó là lúc chiều hôm hay sao mà khi ra về, Anh cứ như rất gần mà cũng lại rất xa, trong tôi. Hay tôi đã bị mê hoặc bởi một Trần Đức Thảo mà tôi đã nghe danh từ buổi thiếu thời, khi tôi còn đang theo học ở Khu học xá Nam Ninh (Trung Quốc). Các thầy giáo của tôi như các Giáo sư: Trần Văn Khang, Nguyễn Lân, Lê Khả Kế, Lê Văn Thiêm, Hoàng Như Mai, Nguyễn Hồng Phong, Đinh Gia Khánh… đã kể cho tôi nghe về cuộc tranh luận không có hồi kết thúc giữa Trần Đức Thảo và Jean-Paul Sartre.

Đặc biệt, tôi nhớ một buổi chiều cuối năm 1989, nhân đến thăm gia đình tôi, khi trao lại cho tôi bức ảnh Anh chụp ở Phố Giá, Thái Nguyên hồi mới từ Pháp về Việt Bắc tham gia kháng chiến, Anh gật đầu nhiều lần và thầm thì: “Bức ảnh này được chụp trước lúc hoàng hôn đó”. Rồi Anh chuyển sang một ý khác, rất bất ngờ: “Kỳ lạ thật, những thời khắc chuyển qua, thật sự chuyển qua, như lúc bình minh và lúc hoàng hôn, cái quy luật hiện lên chưa rõ nét nhưng là có thật. Đừng coi thường cái mờ ảo. Trong mọi cái mờ ảo, nhất là cái-mờ-ảo-người, vốn có tự thuở ấu thơ của giống loài, cũng như của mỗi con người, sẽ cấu thành cái cảm quan xác thực đầu tiên”. Anh đã rất tâm đắc cho rằng phải đứng trên quan điểm con người nói chung-lịch s mới hiện thực hóa được tư tưởng nhân văn, đạo đức Hồ Chí Minh về chí công vô tư và làm cho cái Thiện thắng cái Ác trong cộng đồng, trong mỗi cá nhân. Theo Anh, đối diện với cái-mờ-ảo-người, để giữ được tính giống loài, trí tuệ, lý tính phải vừa tuyên chiến với nó, để khắc phục sự tha hóa, vừa phải nâng đỡ nó,để phát triển những giá trị tích cực của quá khứ được kế thừa đang nhập vào giá trị mới trong xu thế hướng tới tương lai, bởi hiện tại chỉ bền vững và tương lai chỉ được khẳng định khi chúng hồi đáp được những giá trị tích cực của quá khứ. Đó là một hành trình vô tận để con người, loài người vươn tới Chân-Thiện-Mĩ. Hãy nghiêm túc nghiền ngẫm cái-mờ-ảo-người mới có thể vươn tới tự do. Chỉ như thế mới có tự do. Anh Thảo, Anh rất khác A. Kojève như thư Anh trả lời Kojève: “Nhưng có lẽ chúng ta không thuộc vào cùng một gia đình tinh thần. Bởi trước khi tiếp cận triết học ngày nay, tôi là kẻ được tư tưởng của Spinoza thuyết phục, và tôi cũng biết đấy là một học thuyết không được ông ưa chuộng cho lắm. Ông định nghĩa tự do bằng cách phủ định tất yếu. Tôi bảo vệ truyền thống lớn của chủ nghĩa duy lý luôn luôn quan niệm chúng là một”. (3)

Hồi ấy, Anh mới ngoài ba mươi tuổi, tiếp xúc lần đầu với chính văn của Mác, mà anh rất thấu hiểu Mác : “Do bản chất của sự vật, vương quốc của tự do nằm ở bên kia lĩnh vực sản xuất vật chất, hiểu theo đúng nghĩa của danh từ này. Giống như người nguyên thủy phải đấu tranh với tự nhiên để thỏa mãn nhu cầu của họ, để bảo tồn và tái sản xuất ra đời sống của họ, người văn minh cũng bắt buộc phải làm như vậy trong tất cả các hình thái xã hội và dưới bất kỳ phương thức sản xuất nào. Với sự phát triển của con người, vương quốc đó của tất yếu tự nhiên cũng mở rộng, vì các nhu cầu của con người tăng lên; nhưng đồng thời những lực lượng sản xuất dùng để thỏa mãn những nhu cầu đó cũng được mở rộng. Trong lĩnh vực đó, tự do chỉ có thể bao hàm ở chỗ là : con người xã hội hóa, những người sản xuất liên hợp điều tiết một cách hợp lý sự trao đổi chất đó của họ với giới tự nhiên, đặt sự trao đổi chất đó dưới sự kiểm soát chung của họ, chứ không để nó thống trị họ như một lực lượng mù quáng; họ tiến hành sự trao đổi ấy một cách ít hao tốn sức lực nhất và trong những điều kiện xứng đáng nhất, phù hợp nhất với bản chất con người của họ. Nhưng tuy vậy, tất cả những điều đó cũng thuộc về vương quốc tất yếu. Chính ở bên kia vương quốc ấy mới bắt đầu sự phát triển của lực lượng con người như một mục đích tự nó, mới bắt đầu vương quốc chân chính của tự do, vương quốc này chỉ có thể phồn vinh trên vương quốc của tất yếu ấy, coi như là trên cơ sở của chính nó.” (4)

Nhưng để tồn tại trong cái tất yếu sống động ấy, hẳn con người không thể tách rời hai mặt cảm giác và lý tính. Chính vì vậy, Anh không ngừng nghiền ngẫm về hạt nhân duy lý trong triết học Hegel, dù Anh còn rất băn khoăn về nó, nhưng Anh cũng rất trân trọng tư duy về cảm giác của Spinoza. Bởi cái cảm giác là cái lý tính phải vượt qua để tiếp cận được chân lý. Như thế mới nhận thức được vương quốc tự do, mới đến được vượng quốc tự do. Tôi hoàn toàn chia sẻ với Anh, bởi trong tư tưởng của nhà triết học lớn bao giờ cũng tiềm tàng, lấp lánh một tâm hồn nghệ sỹ, và ngược lại, trong tâm hồn của một nghệ sỹ lớn bao giờ cũng thẳm sâu một tư tưởng triết học. Cuộc đời, sự nghiệp của Anh đã và sẽ còn làm xúc động tâm hồn và trí tuệ của nhiều thế hệ. Cái-cảm-giác-ngườicái-trí-tuệ-người trong Anh là một. Âm ỷ nỗi đau nhục của một người dân mất nước, luôn luôn cháy bỏng khát vọng dân chủ, và tự do, với trí tuệ của một thiên tài,Anh đã vươn tới đỉnh cao khoa học nhằm khám phá, dự báo cuộc vận động của lịch sử. Anh viết mà như tâm sự:

“Trong những năm sau chiến tranh, lần đầu tiên khi tôi được làm quen với những chính văn (tác phẩm nguyên bản) của chủ nghĩa Mác, tôi rất ngạc nhiên bởi những lời nhận xét trong Tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” về khả năng chuyển qua giai cấp vô sản của một bộ phận trí thức tư sản, trong thời kỳ khủng hoảng toàn bộ của chủ nghĩa tư bản qua việc nghiên cứu lịch sử thế giới. Điều này đã định hướng cho các nghiên cứu triết học của tôi từ những vấn đề đơn thuần là trừu tượng đến việc suy xét một cách toàn diện về tính chân thực của vận động của lịch sử; của tự nhiên lý, hóa đối với cuộc sống, với xã hội và ý thức.

Vào thời kỳ mà cuộc đấu tranh giai cấp đi đến lúc quyết định, thì quá trình tan rã bên trong tầng lớp thống trị, bên trong toàn bộ xã hội cũ mang một tính chất mạnh mẽ và triệt để đến mức một bộ phận của tầng lớp thống trị sẽ tự rời bỏ giai cấp mình và liên kết với tầng lớp, với giai cấp cách mạng, tầng lớp nắm giữ tương lai trong tay họ.

Cũng tương tự như trước đây, một bộ phận quý tộc chuyển qua giai cấp tư sản, ngày nay cũng tương tự như vậy, một bộ phận tư sản sẽ chuyển qua giai cấp vô sản. Đặc biệt hơn, một bộ phận những nhà tư tưởng tư sản với sức mạnh công việc của mình, họ có thể nổi lên do am hiểu về lý luận toàn bộ quá trình vận động của lịch sử” (5)

Trước tình hình Liên Xô và Đông Âu khủng hoảng, với tôi, nhiều lần Anh nói: “Tôi hết sức suy tư, đến ngỡ ngàng, khi đọc câu trên đây của Mác – Ăng-ghen trong Tuyên ngôn của Đảng cộng sản. Các nước Đông Âu nói riêng, các nước chậm phát triển nói chung, nếu không tiêu hóa được những thành tựu của chủ nghĩa tư bản phát triển thì không thể vươn tới những lý tưởng cao đẹp mà mình mong muốn”.

Ngày 22 tháng 6 năm 1989, sau khi báo cáo khoa học tại trường Nguyễn Ái Quốc khu vực 2, tại tpHCM, Anh đã ghé qua nhà tôi. Hôm đó Anh đã trao cho tôi tấm ảnh chụp bức thư Huy Cận gửi cho anh ngày 2 tháng 4 năm 1959 (tôi đã nhắc đến ở trên). Trần Đức Thảo có thói quen đối với những văn bản quan trọng, Anh thường chụp ảnh giữ lại làm hồ sơ, chứ không phải photo như loại văn bản khác. Tôi nhớ rất kỹ việc anh trao lại cho tôi bức thư của Huy Cận gửi cho anh ngày hôm đó, bởi vì trong lúc báo cáo nói trên, khi đề cập đến cuộc đấu tranh chống tư tưởng giáo điều và siêu hình, duy tâm, Trần Đức Thảo đã khóc một cách bất ngờ. Trong xúc động anh nói: “Đối với nhà khoa học để giữ vững quan điểm của mình, lắm khi phải trải qua sự hy sinh đau đớn. Nhưng không quỳ gối. Phần lớn họ cũng có thể đoán trước được những tình huống xảy ra. Không phải ngày nay như thế, ngày xưa cũng như thế. Cái chết của nhà toán học Pháp Galois trước đây là một tấm gương.” Trao bức thư cho tôi, Anh nói: “Bức thư của anh Huy Cận khi đó là Thứ trưởng Bộ Văn hóa, đến với tôi rất đúng lúc.”.

 

Liên Xô và các nước Đông Âu lúc đó đang trải qua khủng hoảng chính trị, Trung Quốc và Liên Xô chia rẽ trầm trọng. Trong bối cảnh ấy tôi hỏi thật Anh: “Là người đang đứng ở đỉnh cao của giới Triết học Pháp, mở ra một hướng mới trong việc nghiên cứu Hiện tượng học tinh thần của Hegel và Husserl, nhưng Anh đã chuyển hướng và đứng hẳn về phía chủ nghĩa duy vật biện chứng, phải chăng đó là một tấn bi kịch, nếu đặt trong bối cảnh hiện nay để suy nghĩ về vấn đề ấy? Cũng như vậy, việc Anh từ nước Pháp trở về Việt Bắc để tham gia kháng chiến, cũng là một tấn bi kịch chăng?” Trần Đức Thảo đã trả lời tôi ngắn gọn như sau: “Sự khủng hoảng của Liên Xô và các nước Đông Âu, cũng như cuộc Đại cách mạng văn hóa của Trung Quốc, không phải là con đường phát triển tất yếu của triết học Mác. Đó là do sự phát triển sai lầm của triết học siêu hình của chủ nghĩa Stalin và tư tưởng duy tâm của Mao Trạch Đông. Chừng nào chưa khắc phục được tư tưởng Stalin-Mao Trạch Đông thì cuộc cách mạng còn nhiều hiểm họa. Còn việc tôi trở về Việt Nam tham gia kháng chiến là để làm cho tư tưởng triết học ăn nhập vào thực tế. Trước hết là ở bản thân tôi phải có cuộc trải nghiệm. Cuộc sống của tôi từ khi về Việt Nam cho đến hiện nay chính là thể hiện sự trải nghiệm ấy. Lý luận là màu xám. Chỉ có cây đời mãi mãi xanh tươi.”

Không biết bao nhiêu lần tôi đã hỏi Anh: “Nội dung quan trọng nhất và mục tiêu cao cả nhất trong hoạt động sáng tạo của Anh là gì?” Anh đã trả lời hết sức súc tích: “Hiện tượng học của Husserl tôi đã giải quyết xong. Vấn đề đặt ra bây giờ là phong phú hóa, chính xác hóa chủ nghĩa Mác và phát triển chủ nghĩa Mác, đúng theo tinh thần duy vật biện chứng. Tôi tập trung luận chứng khoa học về biện chứng của lịch sử loài người, giống người, con người. Nhưng điều quan trọng là phải phát triển lý thuyết về biện chứng để có thể khái quát sự vận động của tự nhiên, xã hội, ngôn ngữ, ý thức. Phải phân tích, lý giải cái biện chứng của quan hệ vũ trụ, giữa tự nhiên và con người, giữa sinh học, xã hội và tâm thần. Nhưng muốn thế phải phát triển triết học. Phải thống nhất logic hình thức và biện chứng, đặc biệt phải đào sâu, phát hiện cái logic như là hình thức tổng quát của vận động thời gian. Tính lý luận và thực tiễn của cuộc đấu tranh trên lĩnh vực triết học, tư tưởng, văn hóa là ở những vấn đề ấy. Đây là cuộc đấu tranh quyết liệt với mọi biểu hiện của phương pháp tư duy siêu hình, giáo điều và mọi luận điệu xuyên tạc chủ nghĩa Mác và tư tưởng triết học tiến bộ. Chỉ có như vậy mới hiểu được những giá trị bền vững của con người nói chung, mới phát triển được tính nhân văn của triết học mác-xít để hiện thực hóa thành đời sống, thành sự sống của xã hội và con người.” Anh Thảo, tôi hiểu Anh.

Hôm ấy, lúc trời đã vãn, vợ chồng tôi mời Anh ở lại dùng cơm. Vẫn cầm trong tay gói lạc rang muối, nhẹ nhàng nhặt từng hạt, từng hạt…, Anh nói: “Cảm ơn, về thôi. Hoàng hôn đến rồi”. Con trai lớn của tôi chở Anh về bằng chiếc xe đã cũ. Chúng tôi dõi theo Anh. Một khoảnh khắc trở thành mãi mãi. Hoàng hôn hay bình minh, Anh Thảo?

Hoàn thành tại Ân-Tùng trang (32 Đường Bác Ái, Làng Đại học,

P. Bình Thọ, Q. Thủ Đức, TP. Hồ Chí Minh), ngày 14 tháng 5 năm 2007- sửa lần cuối 21 tháng 11 năm 2010

 TS CÙ HUY CHỬ

[Trích: “Biển quê hương trầm tư triết học –

Hồi ký của người gìn giữ Di sản triết học Trần Đức Thảo”. Sắp xuất bản.]

 

 

(1)  Báo Nhân dân, thứ Bảy ngày 26-1-1991, số 13240

(2)  Xem Cù Huy Chử : Danh mục về di sản của Giáo sư triết học Trần Đức Thảo, hộp số 29, kí hiệu 223.463

(3) Alexander Kojève (1902-1968) là nhà triết học lớn, đã sáng lập ra trường phái Hegel học ở Pháp. Bài giảng của ông về Hegel được coi là giáo trình chính thức của tất cả các trường Đại học Pháp trong nhiều thập kỷ. A. Kojève bao trùm lên nền triết học Pháp đầu thế kỷ XX. Trần Đức Thảo đã viết bài phê bình công trình về Hegel của Kojève; bởi vậy, mới có cuộc trao đổi thư từ trên. Khi ấy Kojève hơn Trần Đức Thảo 15 tuổi.

(4) Các Mác. Tư bản – Phê phán khoa kinh tế chính trị. Tập thứ 3, Quyển 3, tr. 437-438. Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội, 1987.

(5)  Trần Đức Thảo. Tiểu sử tự thuật. Trích trong: Trần Đức Thảo. Sự hình thành con người. Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội, 2004, tr. 144.

 

 

Trở vế trang chủ Trần Đức Thảo 
 

Bản của TS Cù Huy Chử gửi
Lên trang viet-studies ngày 29-11-10