ĐỜI SỐNG VĂN NGHỆ
THỜI ĐẦU ĐỔI MỚI
 

Mục lục 

 


Nguồn: Sông Hương

TRƯỚC NGƯỠNG CỬA CỦA SỰ ĐỔI THAY

(phỏng vấn NGUYỄN HỒNG PHONG, HUY PHƯƠNG,
PHƯƠNG LỰU, NGUYỄN ĐÌNH THI, NGUYÊN NGỌC, TRẦN DẦN)

 

Với nhà sử học NGUYỄN HỒNG PHONG

P.V. - Theo anh, để đổi mới văn hóa văn nghệ, cần phải làm những gì?

N.H.P. - Sự tiến bộ về văn hóa tinh thần bao giờ cũng đi trước sự tiến bộ về kinh tế xã hội. Giới văn nghệ đang tham gia tích cực cùng với các giới thông tin báo chí vào công cuộc vận động đổi mới đất nước mở ra từ Đại hội VI. Văn học, sân khấu, điện ảnh đã có những đóng góp có hiệu lực trong cuộc đấu tranh chống tiêu cực xã hội và chống chủ nghĩa quan liêu, đề cao dân chủ. Tuy nhiên, tôi cứ nghĩ là công chúng có quyền đòi hỏi đóng góp riêng của giới văn nghệ không như các ngành khác. Đành rằng văn nghệ không có đối tượng riêng. Nhưng cùng một đối tượng – như các hiện tượng tiêu cực trong xã hội – văn nghệ có lối tiếp cận riêng. Trừ những phóng sự, điều tra tùy bút, chính luận phục vụ kịp thời ra, văn nghệ cũng nên có những sáng tác dài hơi, có tầm sâu rộng hơn, với sức mạnh riêng của mình: sức mạnh kỳ diệu của ngôn ngữ nghệ thuật. Nếu những cuốn tiểu thuyết, những vở kịch chỉ dừng lại ở những hiện tượng và sự kiện thì nó sẽ bị các ngành báo chí thông tin quần chúng vượt qua rất nhanh. Nhiều tác phẩm gây ồn ào và được công chúng hoan nhênh nhiệt liệt chỉ vài năm sau trở thành cũ. Vì các sự kiện "vấn đề" trong ấy đã bị báo chí thông tin vượt qua.

Giới văn nghệ – trước hết là giới văn bút cần phải ý thức được sức mạnh riêng của mình là sức mạnh của từ ngữ. Tôi nhắc lại câu của Jean Blot, Chủ tịch hội văn bút (Pen Club):

"Nếu bằng từ ngữ, người ta có thể gây ra biết bao điều thì tại sao người ta không thể ngăn chặn chúng cũng bằng từ ngữ".

Các nhà văn, người sử dụng từ ngữ hiểu hơn ai hết sức mạnh kỳ diệu của nó. Nhưng cả ở lĩnh vực văn chương cũng phải chống quan liêu, trì trệ. Vì trong một thời gian dài chủ nghĩa quan liêu, chủ nghĩa giáo điều sơ lược, sự xa rời cuộc sống, đã làm cho ngôn ngữ ngày càng sáo mòn, ngày càng kiệt ngôn từ mất dần hiệu lực. Phải làm cho ngôn từ xanh tươi, sống động trở lại. Tôi quan tâm đến sự đổi mới của chính bản thân nền văn nghệ của ta, có thể đề cập đến vấn đề này từ nhiều mặt, ở đây tôi nghĩ trước hết đến việc đổi mới tư duy trong văn nghệ.

Cốt lõi của một nền văn hóa là hệ giá trị của nó. Đổi mới văn hóa là đổi mới hệ giá trị. Cốt lõi của một nền văn nghệ là cái mỹ học của nó. Muốn đổi mới văn nghệ phải đổi mới mỹ học. Việc đổi mới không đơn giản như là đem dịch một bộ giáo khoa mỹ học mới của Liên Xô được soạn vào thời cải tổ để thay vào bộ cũ. Vả lại theo tôi trong văn hóa học hay mỹ học, sách giáo khoa chưa phải là cái tốt nhất. Nếu người ta than phiền là có đến mấy trăm định nghĩa về văn hóa để không biết chọn định nghĩa nào, thì chưa phải là hay nếu ra sức đi tìm một định nghĩa nhất trí. Nhiều định nghĩa, mỗi định nghĩa đi vào một khía cạnh, được nhìn từ một góc độ, không ngăn cản nhận thức và hoạt động văn hóa. Nhưng đưa ra một định nghĩa sơ lược, cứng nhắc hoặc trừu tượng, thì chẳng có bổ ích gì nếu không nói là có hại. Cũng như mỹ học định nghĩa về cái Đẹp vậy. Các nhà mỹ học cứ mãi loay hoay mãi để định nghĩa cái Đẹp là gì mà không xong thì trong đời sống cái Đẹp vẫn được sáng tạo, những con người bình thường vẫn lĩnh hội và thưởng thức được cái Đẹp. Tôi không hề phản đối việc xây dựng các khái niệm mỹ học. Tôi chỉ phản đối lối "gọt chân cho vừa giầy", khái quát non, đưa ra những chân lý chung chung trừu tượng nó không sai nhưng chẳng đúng vào đâu cả, do đó vô bổ. Những chân lý trừu tượng này không chỉ có trong các sách mỹ học, lý luận văn học, mà ta còn thấy trong cách sách lý luận thuộc các ngành khoa học xã hội và khoa học nhân văn nữa. Mác có nói vật lý đang rất mắn đẻ, từ khi kết hôn với tinh thần học nó mất khả năng sinh nở, cái thứ lý luận giáo điều máy móc nó mó vào đâu thì cái ấy xơ cứng lại, không sinh nở như thế.

Đổi mới mỹ học không phải lấy giáo điều mới thay giáo điều cũ, mà là chống lại mọi thứ giáo điều nó ngăn cản sự tìm tòi, sáng tạo, canh tân, nó làm xơ cứng tàn lụi những gì sinh động, những gì thuộc về sự sống.

Hiện nay văn nghệ còn lạc hậu đối với đời sống, mỹ học lại còn lạc hậu so với thực tiễn văn nghệ. Một thí dụ về sự lạc hậu: các nhà xuất bản ra những tuyển tập về văn, thơ lãng mạn trước cách mạng của Huy Cận, Xuân Diệu, Nguyễn Bính, Nguyễn Tuân. Đây thực sự là đánh giá lại văn thơ lãng mạn. Nhưng lý luận văn học của sự đánh giá lại này thì chưa có.

Đừng sợ sự đổi mới về lý thuyết. Ngay môn vật lý học – thuộc khoa học chính xác – mà những khái niệm của nó cũng tiến triển và thay đổi "Những khái niệm sinh ra, phát triển, thống trị, rồi suy tàn, trong vật lý học hay trong ngành khác cũng vậy" (Max Morand).

Sự đổi mới mỹ học bắt đầu bằng việc xây dựng quan điểm mỹ học mới. Việc xây dựng cái mới không tiến hành trên mảnh đất trống, có những vấn đề cũ đòi hỏi phải có giải đáp mới vấn đề về chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa, về bản sắc dân tộc, về nội dung và hình thức, về tính người trong văn nghệ v.v... Tôi nói về tính người chẳng hạn – trước đây ta nói về các thứ tính của văn nghệ, nhưng không bao giờ nói đến tính người. Nếu có nói đến chỉ để phê phán. Bây giờ thì không cần kiêng mà cũng không lẩn tránh được. Phải bàn thẳng về nó. Bởi vì văn nghệ là gì nếu không phải là sự thăm dò các kích thước con người, nhằm bảo vệ và thể hiện bản thân con người, nâng cao và hoàn thiện con người.

Không có một mỹ học tiến bộ sẽ ngăn cản cả việc đối thoại và tiếp thu các giá trị văn hóa văn nghệ của thế giới. Việc giao lưu - đối thoại với các nền văn nghệ nước khác là một nhân tố quan trọng trong sự phát triển nền văn nghệ mỗi nước. Nói đến sự phát triển là nói đến sự triển khai các hoạt động trao đổi. Phạm vi trao đổi càng rộng, nội dung trao đổi càng phong phú, thì sự phát triển càng mạnh, càng nhanh. Không thể có sự phát triển tốt đối với một nền văn hóa văn nghệ ít giao lưu, khép kín. Hiện nay trong giao lưu văn hóa, ngoài các nước xã hội chủ nghĩa, chúng ta mới bắt đầu mở ra vài nước châu Á, chủ yếu là Ấn Độ, vài nước châu Phi và châu Mỹ Latinh. Đối với nền văn hóa văn nghệ phương Tây hiện đại ở các nước phát triển tư bản chủ nghĩa thì chúng ta chỉ mới hé cửa và rất dè dặt. Vì lý do hệ tư tưởng và các thành kiến do chủ nghĩa thực dân cũ và mới để lại. Chúng ta chỉ định tiếp thu thành tựu khoa học, kỹ thuật quản lý kinh tế mà không tiếp thu những tiến bộ về kinh tế, về khoa học kỹ thuật lại không thể có nếu không có những tiến bộ về văn hóa tinh thần. Cho nên việc tiếp thu có chọn lọc, phê phán những giá trị văn hóa - tinh thần từ các nước Tây Âu, Bắc Mỹ, Nhật Bản là cần thiết và bổ ích cho sự đổi mới nâng cao, phát triển nền văn hóa nước ta.

Trong việc tiếp thu những giá trị văn hóa từ ngoài ở các nước phát triển sẽ có sự cọ xát xung đột với những giá trị văn hóa truyền thống. Phản ứng tự phát của hệ tư tưởng văn hóa truyền thống thường biểu hiện ở sự lựa chọn – cái này hợp với cái ta, cái kia không hợp. Cái "không hợp" nhiều khi chỉ là phản ứng bảo thủ của tập quán và những thành kiến lỗi thời. Cho nên một việc cực kỳ quan trọng cho việc đối thoại giao lưu với các nền văn hóa khác là phải khắc phục những nhân tố nào nằm ngay trong nền văn hóa bản địa gây cản trở cho sự đối thoại giao lưu văn hóa. Mỗi dân tộc phải xác định rõ bản sắc văn hóa của mình từ đó định hướng cho việc tiếp thu những giá trị văn hóa nhập, và nền văn hóa dân tộc đến trình độ hiện đại.

Cuối cùng, nhân tố quyết định đối với sự đổi mới văn nghệ là đổi mới cách quản lý văn nghệ. Người ta thường nhấn mạnh vào tính đặc thù của sáng tác văn nghệ đòi hỏi phải có cách quản lý riêng, cái đặc thù lớn nhất của văn nghệ là tính sáng tạo của nó, và về mặt đó nó giống với khoa học.

Có một mệnh đề nổi tiếng: khoa học làm mất tính người, nghệ thuật bảo vệ tính người. Dostoevski nói: Cái đẹp sẽ cứu thế giới. Nhưng chúng ta đương ở bước khởi đầu của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ III. Ở cái thời này, với học thuyết IJCAI cách phân chia văn hóa khoa học và văn hóa nhân bản không còn phù hợp nữa. Sự tổng hợp của hai hình thái tư duy này là đặc điểm của nên văn hóa ngày nay. Tôi nhớ đến câu của nhà vật lý học Léo Pold Infeld: "Cũng như âm nhạc toán học và vật lý học đều là những sáng tác nghệ thuật."

Kinh nghiệm của quản lý khoa học cho thấy: không thể quản lý những phát minh lớn theo nghĩa thông thường. Các suy tưởng mới và khác thường, các lý thuyết táo bạo, các phát minh bất ngờ thường xuất hiện đột ngột khó có thể nói đó là kết quả của một sự quản lý có kế hoạch.

Trong sáng tạo nghệ thuật cũng như vậy. Không phải sự ra đời của những kiệt tác trong văn nghệ là do tác giả của nó đã chuẩn bị tích lũy lâu dài, lao động công phu hơn, do trí thức và kinh nghiệm có nhiều hơn. Nếu chúng ta nói đỉnh cao của sáng tác Nguyễn Tuân là Vang bóng một thời, của Xuân Diệu là Thơ thơ, của Huy Cận là Lửa thiêng thì đây đều là giai đoạn tác giả của nó còn ít trí thức và kinh nghiệm so với các giai đoạn về sau của họ. Đỉnh cao của các nhà văn khác là vào cuối đời như Faust của Goethe chẳng hạn. Trường hợp Don Quichotte của Cervantes còn đặc biệt hơn. Một cuốn tiểu thuyết duy nhất, được sáng tác muộn màng, trở thành một kiệt tác bất hủ của văn học thế giới.

Tôi lấy một thí dụ: anh Nguyễn Huy Thiệp đã viết truyện ngắn xuất sắc cả về nội dung lẫn hình thức: Tướng về hưu. Nhưng liệu anh Nguyễn Huy Thiệp có thể rút kinh nghiệm hơn để cho ra ngay một truyện ngắn như thế nữa không? Và bao giờ tác giả có được truyện ngắn như thế? Trường hợp Chí phèo của Nam Cao hay Tắt đèn của Ngô Tất Tố cũng vậy.

Một tác phẩm mới xuất hiện, tôi muốn nói một tác phẩm có cái mới chứ không phải một cuốn sách mới viết, một bức tranh mới vẽ – làm sao nó gặp ít may rủi nhất trong sự đánh giá của người quản lý, nhà xuất bản, của giới phê bình?

Và trong trường hợp một tác phẩm khó hiểu thì nên xử lý thế nào? Không phải mọi cái gì khó hiểu như nhiều câu thơ tối nghĩa của Mallarmé đều là thiên tài. Nhưng không phải mọi thiên tài đều dễ hiểu. Maiakovski, lúc đầu rất ít người hiểu, cả Dostoevski nữa. Lịch sử hội họa đầy những thí dụ về những thiên tài ít có người hiểu. Hầu hết các bức họa ngày nay các bảo tàng tranh nhau mua mà ở thế kỷ trước hầu như không được ai hiểu.

Tôi hoàn toàn không định bênh vực sự khó hiểu trong nghệ thuật, tôi chỉ muốn nói sự dễ hiểu không phải là một tiêu chuẩn bắt buộc đối với mọi sáng tác nghệ thuật. Sự phê bình sáng suốt và sự thử thách của thời gian sẽ xác nhận các giá trị sáng tạo nghệ thuật.

Tóm lại, cần phải đổi mới sự quản lý nghệ thuật sao cho nó phát huy được tiềm lực sáng tạo, chứ không kìm hãm, làm thui chột làm cằn khô sự sáng tạo.

 

Với nhà văn HUY PHƯƠNG

P.V. - Anh nghĩ gì về các tờ báo văn nghệ lớn ở Thủ đô hiện nay?

H.P. - Theo tôi, hai tờ báo lớn về văn học và nghệ thuật phát hành ở Hà Nội và đang có độc giả rộng rãi trong nước là hai tờ báo của Hội Nhà văn Việt Nam. Tuần báo Văn nghệTác phẩm Văn học, có thể là do chức năng mà cũng có thể là do quan niệm của Ban biên tập, nên hình như nó thể hiện hai thái độ và xu hướng không giống nhau. Một xu hướng đang tham chiến với các vấn đề gay cấn của xã hội, muốn lay động lương tri của dư luận, muốn kêu gọi ý thức công dân của độc giả, đối phó với tình trạng "tiêu cực", muốn cổ vũ sinh hoạt dân chủ, khuyến khích tinh thần tự do sáng tác ở những người cầm bút trước các vấn đề quan trọng của dân tộc và đất nước (báo Văn nghệ). Một xu hướng khác thì thiên về phía khẳng định những giá trị truyền thống, muốn bình tĩnh chọn lọc và giới thiệu được những tác phẩm văn học có giá trị ổn định, lâu dài (Tác phẩm Văn học). Tôi nghĩ rằng những vấn đề của văn học không thể giải quyết ổn thỏa trong một sớm, một chiều, và chân lý cần được khẳng định bằng tác phẩm chứ không phải bằng lời nói. Đổi mới trong văn học cũng có nhiều cách. Nếu ta làm tốt, thì những xu hướng nói trên (nếu đã có thể nói đó là xu hướng) chỉ có thể bổ sung cho nhau, nương tựa vào nhau, giúp vào bước phát triển của văn học. Khuynh hướng tác chiến, tham gia tích cực vào những vấn đề nóng bỏng đang đặt ra của thời đại dĩ nhiên là rất cần. Nhưng mỗi nhà văn có cách nghĩ, cách viết riêng của mình, và cách nào thì cách, vẫn phải quan tâm đến tính nghệ thuật và chất lượng văn học của bài viết. Tôi có cảm tưởng, nhiều khi báo Văn nghệ đã phải gánh trên vai một phần công việc của báo Nhân dân hoặc của một tờ báo chính trị – xã hội trước các yêu cầu đổi mới của đời sống. Nói như thế không phải tôi có ý chê trách gì báo Văn nghệ mà chỉ muốn nói lên một điều bất hợp lý cần điều chỉnh. Trái lại, dẫu có thể chưa đồng tình với một bài vở trên báo, cho đến hiện nay, tôi vẫn khẳng định cái thái độ tích cực nhập cuộc và ý muốn góp phần "khai sáng" của báo Văn nghệ là rất đáng hoan nghênh, và ủng hộ. Chắc hẳn nhiều đồng nghiệp của tôi và bạn đọc cũng thấy như thế. Mặt khác cũng nên nói rõ, phấn đấu để có được những tác phẩm có giá trị lâu dài, điều đó ai mà chẳng muốn. Nhưng ta không quên rằng cách ly khỏi cuộc sống, tự tách mình ra khỏi tâm trạng chung của xã hội thì nhà văn khó hy vọng có được tác phẩm hay. Tác phẩm hay, có giá trị lâu dài bao giờ cũng là tác phẩm biết nói về thời đại mình một cách sâu sắc và nhân bản nhất. Học hỏi và viết theo kiểu truyền thống cũng được, nhưng bây giờ ta đang ở vào cuối những năm 80, người viết đang phải hiện đại hóa cách viết và hình thức biểu hiện để có thể diễn đạt ở mức khái quát cao những vấn đề của thời đại, miễn là không lai căng hoặc bắt chước một cách mù quáng, chứ còn cách tân hình thức viết cho phù hợp với nội dung mới thì có gì mà phải ngại. Nhân anh nhắc đến cái chuyện Sa mạc của tôi, xin nói là tôi đã viết xong nó ở Huế và đã đọc cho một số các bạn nhà văn và nhà thơ nghe, trong một bữa "nhậu nhẹt" nho nhỏ rất vui ở căn phòng dưới cửa nhà 26 Lê Lợi. Anh em nói tôi là nên dành cho tạp chí Sông Hương nếu tôi còn áy náy về một vài chi tiết chưa kỹ. Ra Hà Nội, chữa xong lần cuối tôi đã đưa cái truyện ấy cho Tác phẩm Văn học. Có đồng chí khen đó là một truyện ngắn hay. Nhưng khi đưa cho vài đồng chí khác xem thì họ trả lời là "khó đăng". Đã khó thì thôi. Tôi lại đưa cái truyện cho tuần báo Văn nghệ như anh đã thấy. Việc này cũng có thể giúp tôi hiểu cách nghĩ và "khẩu vị" của một số người làm biên tập hiện nay. Đánh giá văn học có chỗ khác nhau là chuyện bình thường. Tôi chỉ e rằng cách nghĩ của một số người làm biên tập hiện nay đang cách biệt với những đòi hỏi của văn học và của người đọc. Đúng là báo Văn nghệ đôi khi cũng có vẻ "thời sự" quá. Nhưng ít ra cứ mỗi năm trong số hàng trăm cái truyện ngắn bút ký được đăng, bỏ ra ta lọc lấy được khoảng mươi cái có giá trị và thể hiện được ở mức độ nào đó thực trạng thời đại ta đang sống thì như vậy cũng đã là quý lắm. Muốn mở rộng sáng tạo mà câu nệ và dè dặt quá thì khó cất bước lên được!

P.V. - Đổi mới văn học hiện nay, theo anh nên thế nào? Cái gì là trọng tâm?

H.P. - Tôi cho rằng trọng tâm của việc đổi mới trong văn học hiện nay cần hướng vào việc hoàn lại cho văn học cái chức năng trọn vẹn của nó. Ngoài thái độ dũng cảm và trách nhiệm công dân của nhà văn trong khi đề cập tới những vấn đề xã hội và con người trong thời điểm hiện nay của đất nước, thì sự hội nhập của văn học ta vào các vấn đề lớn đang đặt ra với con người trên hành tinh này là điều quan trọng. Tâm hồn con người, những uẩn khúc của nó, và cả sự hổ thẹn, sám hối của con người trước những cái đích cao đẹp mong muốn đạt tới... đều là đối tượng khám phá hàng đầu của văn học nghệ thuật. Thân phận và vị trí con người Việt Nam trong thế giới ngày nay cần được biểu hiện khái quát hóa bằng nghệ thuật. Đó sẽ là sự đóng góp quý báu của văn học Việt Nam vào văn học thế giới. Là một người viết văn tôi sợ những chữ nghĩa to tát. Nhưng biết làm sao được. Dẫu chẳng nói ra thì đó vẫn là mong muốn và những điều ủ ấp trong lòng của mọi người cầm bút, chẳng phải chỉ mới hôm nay.

Bên cạnh đó, cũng cần phải tính đến những điều thiết thực. Ta nói nhiều đến tự do sáng tác, nhưng đã đến lúc cần có một cơ chế bảo đảm cho cái quyền ấy của nhà văn, cũng như bảo đảm những điều kiện cho họ sống và sáng tác, công bố tác phẩm và có thu nhập thỏa đáng bằng tác phẩm của mình, không phải dựa dẫm quá nhiều vào đồng lương của chức vụ hành chính như hiện nay. Đó là một thực trạng phi lý đã kéo dài quá lâu.

 

Với nhà phê bình văn học PHƯƠNG LỰU

P.V. - Gần đây nhiều người kêu lý luận văn học của ta yếu kém, làm gò bó sáng tác. Là nhà lý luận văn học, anh nghĩ như thế nào về ý kiến trên?

P.L. - Tôi không nghĩ sáng tác mình dở vì bị lý luận gò bó. Thực ra, phải sòng phẳng: có mấy nhà văn chịu đọc lý luận! Mà không thể trách gì nhà văn; không ai đọc lý luận để sáng tác cả. Nhà văn đó do loại lý – luận – văn – bản không bao nhiêu, mà chủ yếu là do một thứ lý luận khác, lý luận vô ngôn, thông qua một quyền uy nào đó mà tác oai kia! Các văn bản chính thức của Đảng về lý luận, xin đọc lại mà xem, vừa nguyên tắc vừa cởi mở (trong đó những vấn đề bây giờ trở nên nóng hổi, như đặc trưng của văn nghệ, tự do sáng tác... cũng được đề cập cả đấy chứ). Còn đã nghe nói có cuốn lý luận nào đó hay, liền tìm đọc, thế là quý rồi. Anh Nguyễn Khải có bảo chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa không cho phép nhà văn viết phê phán, nhưng đấy chỉ là do anh hiểu thế thôi. Chứ không một giáo trình lý luận văn học nào, dù cổ lỗ đến đâu, viết hẳn hoi giấy trắng mực đen như thế.

Nhà văn quả bị gò bó, tôi không phủ nhận. Nhưng tôi cho rằng sự gò bó trên thực tế không được như vậy, thì đó là lỗi của lý luận vô ngôn. Cho nên, chỉ căn cứ vào các văn bản chính thức của Đảng để kết luận văn nghệ ta không bị gò bó, thì đó là việc làm không có sức thuyết phục.

Không nhận thức như vậy sẽ dẫn đến chỗ nhầm tưởng phải thay đổi toàn bộ quan điểm của Đảng về văn nghệ. Tất nhiên như vậy không có nghĩa quan điểm của Đảng về văn nghệ đã hoàn thiện.

Ở đây cần nói rõ một sự nhầm lẫn không phải không gây tác hại của các nhà lý luận phần nào trong đó cũng có tôi. Nhiều đồng chí lãnh đạo Đảng là nhà thơ, nhà văn, và do quan tâm đến văn nghệ đã phát biểu nhiều ý kiến sâu sắc, bổ ích về lĩnh vực này. Những ý kiến đó được các nhà lý luận vô hình trung đồng nhất với đường lối của Đảng. Nhưng trong nhiều trường hợp, những ý kiến đó là vấn đề cụ thể. Đáng ra không nên biến những ý kiến cụ thể đó thành nguyên lý của muôn đời, mà nên để đời sau tiếp tục suy nghĩ, có thể khác với ý kiến các đồng chí lãnh đạo, và không vì thế mà bị kết tội "bất kính" hay "chống lại đường lối của Đảng". Ví dụ để ngăn chặn lối biểu tượng hai mặt không thiện ý, đồng chí Trường Chinh từng nói: một trong những yêu cầu của tính đảng là phải có chủ đề rõ ràng. Tuy nhiên, không thể cho đây là nguyên lý vì nó vi phạm tính đa nghĩa của văn học. Vả chăng, trong đời sống cũng thế, cái xấu, cái tốt cũng đều có hai dạng đơn giản rõ ràng và phong phú phức tạp. Làm sao có thể chỉ lấy đơn giản rõ ràng làm tiêu chí phân định tốt, xấu được. Nhưng không một nhà lý luận nào bàn lại. Thực ra, chính các đồng chí lãnh đạo cũng không nghĩ điều mình nói ra là vĩnh viễn đúng đắn cả đâu. Trước đây, đồng chí Trường Chinh viết: "Thơ là nghệ thuật kỳ diệu bậc nhất"? Tiểu thuyết chẳng hạn kém thơ về tưởng tượng chăng? Trong bản in gần đây, nhận định trên đồng chí Trường Chinh vẫn giữ lại, nhưng hai chữ "bậc nhất" đã bị xóa đi.

Lại có một nhầm lẫn này nữa: những vấn đề của lý luận, Đảng đã làm hết cả rồi, các nhà kinh điển đã giải quyết xong tất cả, cho nên nhà lý luận chỉ "thuật nhi bất tác"! một sự nhầm lẫn như thế sẽ dẫn đến thái độ không quan tâm đến việc nghiên cứu lý luận (xin nói thêm, đó cũng là tình hình chung của khoa học xã hội). Cho nên, nói lý luận phê bình, nhưng trên thực tế là chỉ chú trọng đến phê bình, mà xem nhẹ lý luận, kết quả tác hại ngay đến phê bình!

P.V. - Nếu không kể đến những sự "nhầm lẫn" kiểu nêu trên, thì cái yếu kém của lý luận văn học chúng ta là do đâu, thưa anh?

P.L. - Theo ý tôi, đó là do chúng ta chưa giải quyết tốt ba mối quan hệ: với những cơ sở và thành tựu của lý luận mác-xít (kể ý kiến của cha ông ta); và với lý luận phi mác-xít.

Ở mối quan hệ thứ nhất, có tình hình là chúng ta chưa hiểu hết ý kiến của các nhà kinh điển. Một ví dụ: chúng ta có tâm lý sợ nhà văn nói khác với nhà chính trị. Nhưng chính Mác và Ăngghen cho rằng nhà văn thuộc vào bộ phận "thiết kế lý tưởng" của một giai cấp, cho nên không lấy làm lạ là có khi nó có ý kiến khác với bộ phận thực nghiệm, thậm chí có khi đối lập nữa kia. Nói như thế, không nên hiểu nhầm nhà văn không có tính giai cấp; nhà văn thuộc bộ phận thiết kế lý tưởng cho một giai cấp nhất định và khi có mối đe dọa cả giai cấp thì nó sẽ trực tiếp đứng ra bảo vệ một cách kiên quyết.

Tất nhiên các nhà kinh điển cũng chưa nói hết những vấn đề của chủ nghĩa tư bản. Nhưng chúng ta vẫn chưa phải đã hiểu hết các nhà kinh điển. Nguy hiểm hơn, chúng ta lại cho cái hiểu biết chưa đến nơi đến chốn của mình là đủ để giải quyết mọi điều!

Tình hình cũng như vậy đối với đường lối của Đảng và thành tựu lý luận mác-xít của nước ngoài, tiêu biểu là của Liên Xô (Tôi muốn nói thêm: với các thành tựu của Liên Xô, chúng ta thường chỉ vấn đề tiếp thu, chứ chưa vươn lên đến tầm có thể thảo luận học thuật với bạn; trên báo chí ta, hầu như chưa có bài nào trao đổi với các nhà khoa học Liên Xô về lý luận văn học cả).

Ở mối quan hệ thứ hai, phải thừa nhận các nhà lý luận chúng ta nói chung rất thiếu cảm quan và tri thức lịch sử về chuyên ngành mình. Nhân loại đã thẩm định về văn thơ hàng ngàn năm nay: cái bề dày lịch sử đồ sộ đó ta chưa khảo sát bao nhiêu.

Ở mối quan hệ thứ ba, tình hình không khá hơn; chúng ta chưa phải đã biết cặn kẽ, ví dụ, chủ nghĩa cấu trúc, học thuyết Freud..., Lênin bảo chủ nghĩa duy tâm thường thổi phồng bơm to một cái gì đó thực; người duy vật ngu xuẩn thì sổ toẹt, người duy vật thông minh thì tiếp thu hạt nhân hợp lý của nó. Ta có khi còn tệ hơn anh duy vật ngu xuẩn, chưa đọc bao nhiêu đã sổ toẹt rồi!

Đổi mới lý luận văn học buộc phải đổi mới tư duy lý luận văn học; thực chất là phải giải quyết ba mối quan hệ này. Đó chính là thực hiện cách suy nghĩ (chứ không phải là những vấn đề cụ thể) của các nhà kinh điển.

P.V. - Trong không khí gò bó trước đây, vẫn có những người sáng tác "vượt rào". Phải chăng đấy cũng là tình hình của lý luận văn học?

P.L. - Người ta thường chê nhà lý luận chỉ chuyên nhai lại kinh điển. Sự thực thì, cũng như trong sáng tác, ở địa hạt lý luận không phải là không có người vượt rào, tuy tỷ lệ có thể mỗi bên một khác. Có thể thấy hai dạng vượt rào. Một là dũng cảm nói thẳng điều mình suy nghĩ, do đó rất dễ gặp "tai nạn", trường hợp anh Hoàng Ngọc Hiến là một ví dụ. Hai là uyển chuyển hơn, tìm cơ hội để nói thật lòng mà vẫn bảo vệ được mình; cần phân biệt dạng này với bọn cơ hội mà đặc trưng là tìm mọi cách để vơ quyền lợi về mình. Hai dạng điều cần thiết, không thể lấy dạng này thay cho dạng kia.

Gò bó là một cái gì đó rất tổng hợp, chứ đừng, như tôi đã nói, quy hết cho lý luận. Gần đây, anh Nguyễn Đăng Mạnh hỏi tôi: "Các anh bảo thế giới quan quyết định sáng tác, thế thì những nhà văn đã sai lầm về chính trị, sáng tác của họ hẳn phải vứt bỏ. Như vậy chúng tôi đành bó tay trước một số nhà văn có vấn đề nhất là thời kỳ 30 – 45?". Tôi có nói trong cuốn Học tập tư tưởng văn nghệ V.I Lênin, tôi có phân tích bài báo Cuốn sách tài hoa của Lênin viết về tập truyện Mười hai lưỡi dao đâm vào sau lưng cách mạng của tên bạch vệ A. Avecsenco, để đặt vấn đề khả thủ về mặt chân thực của một tác phẩm phản động. (Thế mà trước cuốn sách tôi có hai năm, trong cuốn Lênin bàn về văn hóa văn học (Nxb Văn học, 1977), bài báo này của Lênin bị loại ra, dù tôi biết anh Nguyễn Văn Hạnh, người chủ trì có cho dịch để đưa in. Lênin cũng bị kiểm duyệt!). Nhưng tôi nói thêm với anh Mạnh: "Chắc là anh đọc vấn đề đó rồi, còn như chưa dám vận dụng, thì có nhiều lý do khác, không có gì lạ".

P.V. - Anh có ý kiến gì về những vấn đề lý luận được tranh cãi sôi nổi gần đây, văn nghệ với chính trị chẳng hạn?

P.L. - Chuyện văn nghệ với chính trị bây giờ được đặt ra theo tôi cốt lõi là ở chỗ vừa qua có sự ràng buộc gò bó của phía thoái hóa về chính trị với văn nghệ thực sự vì dân vì nước. Do đó, cần phải tập trung làm sáng tỏ hơn nữa sự gắn bó của văn nghệ chân chính với chính trị chân chính, lấy dân làm gốc. Quan hệ giữa chính trị với văn nghệ là hiển nhiên; cũng như vợ chồng phải đưa ra tòa ly dị vì một trong hai người bị biến chất, nhưng đó không phải là lý do để xóa bỏ quan hệ vợ chồng nói chung.

Khi thảo luận về quan hệ giữa văn nghệ với chính trị, nhiều anh em cho rằng văn nghệ sống lâu hơn chính trị; văn nghệ là không quan phương, còn chính trị là quan phương; văn nghệ đề cập đến thân phận, chính trị quan tâm đến chuyện chung; văn nghệ đi trước chính trị v.v... Tôi cho rằng những phân biệt đó tuy có cơ sở phần nào nhưng không hoàn toàn đúng; đó không phải là sự khu biệt thực sự giữa văn nghệ với chính trị. Đặc trưng mấu chốt, từ đó có thể tìm ra nhiều đặc trưng có tính chất hệ quả khác, phân biệt văn nghệ với chính trị, theo tôi là: văn nghệ xây dựng tâm hồn, chính trị giải quyết thực tiễn của văn nghệ chỉ là gián tiếp.

P.V. - Còn về một ý kiến mới đây cho rằng chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa là một ngọn cờ chính trị hơn là một khái niệm học thuật, anh nghĩ như thế nào?

P.L. - Chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa là vấn đề quan điểm nhưng còn là vấn đề học thuật nên vẫn cần tiếp tục bàn bạc. Người nào thấy có phương pháp sáng tác nào tốt hơn phương pháp sáng tác hiện thực xã hội chủ nghĩa đều nên phát biểu. Nhưng không nên dừng lại ở tuyên bố, mà phải chứng minh: nếu nói không có phương pháp sáng tác hiện thực xã hội chủ nghĩa thì phải chứng minh tại sao các nền văn học trước có cái – isme mà nay lại không có. Và để cho trung thực, muốn phản bác thì phải kèm theo tự phản bác.

Tôi không đổi mới đến mức cho chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa là của giả, cần phải vứt đi. Nhưng tôi hoàn toàn tin rằng trong quan niệm về chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa hiện nay có nhiều điều lỗi thời, sai lầm này mới tiêu vong. Còn chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa đã tồn tại trong sự đổi mới không ngừng và phải đổi mới nữa mới tiếp tục tồn tại được.

Đôi ý nghĩ sơ bộ hôm nay, chỉ xem như câu chuyện với khách phương xa từ núi Ngự đến; nhưng xin hứa với Sông Hương sẽ có dịp triển khai rõ ràng đầy đủ hơn ý kiến của mình.

 

Với nhà văn NGUYỄN ĐÌNH THI (Tổng thư ký Hội Nhà văn Việt Nam).

P.V. - Người ta nói đến chế độ bao cấp không những trong kinh tế mà cả trong văn nghệ. Ý kiến anh như thế nào?

N.Đ.T. - Trước đây Hội Nhà văn được xếp vào loại cơ quan sự nghiệp hành chính bao cấp. Các nhà văn, nói chung, làm việc trong các cơ quan, hoặc chuyên sáng tác, đều lĩnh lương nhà nước, theo thang lương hành chính. Tác phẩm của nhà văn được coi là phục vụ công tác tư tưởng, nên không tính đến kinh doanh. Tôi đã từng trả lợi phỏng vấn, rằng giá một quyển tiểu thuyết dày đại thể bằng một bát phở. Tiền nhuận bút chỉ coi là thu nhập phụ. (Nói như vậy để thấy rằng nhuận bút, sách vở không phải là chuyện lẻ. Nó nằm trong một "hệ tư tưởng" hẳn hoi: hệ tư tưởng bao cấp!). Ấy thế mà có người còn kêu nhuận bút nhà văn cao quá, làm cho mức sống nhà văn cách biệt với những người lao động khác. Thực ra, đã nhiều năm, các nhà văn, cũng như đội ngũ trí thức nói chung ở nước ta sống rất thanh bạch, không ít nhà văn thu nhập không bằng một bà hàng nước chẳng hạn (tất nhiên bà hàng nước trông có vẻ lam lũ hơn). Nhuận bút phải đủ nuôi nhà văn, thì mới bỏ lương đi được, nghĩa là bỏ bao cấp đi được.

Thời Pháp thuộc, đa số nhà văn ta đều có một nghề không phải là nghề văn, viết lách chỉ là nghề phụ, xét về thu nhập, Vũ Trọng Phụng sống hoàn toàn bằng nghề viết văn viết báo thì chết rất sớm vì ho lao. Nay nhà văn ta sống đỡ bấp bênh hơn, nhưng còn phải xây dựng những chế độ chính sách thích hợp, để nhà văn có thể sống bằng lao động sáng tạo của mình.

P.V. - Con trai đen của anh trước đây gặp "trắc trở" phải chăng một trong những nguyên nhân là vì nó không vừa lắm với cái khuôn phương pháp sáng tác hiện thực xã hội chủ nghĩa như vẫn được hiểu.

N.Đ.T. - Tôi có mấy vở kịch và một số sáng tác khác đã gặp "vấp váp", một phần do những sáng tác ấy còn kém, nhưng cũng có một phần do va chạm với một số quan niệm hẹp hòi. Theo tôi, nguyên nhân cái chưa tốt của văn nghệ ta không phải là lý luận văn học, mà là do tình trạng còn thiếu dân chủ trong xã hội ta. Gần như một quy luật phổ quát: nước nào cũng thế, có chiến tranh là có kiểm duyệt. Ngay ở nước Pháp được tiếng là dân chủ, mà trong thế chiến I, Romain Rolland còn phải bỏ qua Thụy Sĩ. Nhưng cũng đừng đổ hết cho chiến tranh. Trong buổi đồng chí Nguyễn Văn Linh gặp các văn nghệ sĩ, tôi nói chúng ta phải cẩn thận, nếu không lãnh tụ Đảng sẽ trở thành hoàng đế kiêm giáo chủ, nghĩa là quyết định sống chết không những của thân xác mà cả linh hồn con người.

Ai gọi văn học trước đây là văn học giả, tôi sẽ cãi đến cùng. Tất cả những gì tôi viết ra là đều với tấm lòng mình. Những nhà văn có bản lĩnh đều tự do. Chùa Một Cột được làm theo lệnh vua, nhưng người thợ vẫn say mê công việc của mình nên cảm thấy tự do, do đó vẫn làm nên ngôi chùa tuyệt đẹp. Tác phẩm là của một thời; khi thời ấy qua đi, thực tiễn sẽ cho thấy nhiều điều trong đó là sai lầm. Nhưng nếu nhà văn viết với tấm lòng mình, không chút giả tạo, thì tác phẩm vẫn đứng được. Khi trong xã hội thiếu dân chủ, thì người ta nói vòng, nói kháy. Truyền kỳ mạn lục, Liêu trai là những con đường vòng như thế. Tất nhiên, tuy được phép nói thẳng, có khi nhà văn vẫn thích nói vòng, khi thấy nói vòng cho phép thấy rõ hiện thực hơn.

Nhưng vấn đề còn phức tạp hơn. Truyện Kiều ra đời trong thời kỳ không thể nói là dễ thở. Bao nhiêu tác phẩm của Dostoevski là ở thời Sa Hoàng ngột ngạt chứ. Đã mấy nhà văn chúng ta dám sánh với Dos, với Nguyễn Du? Còn là vấn đề thiên tài. Mà thiên tài xuất hiện, theo tôi, là sự may rủi của lịch sử. Có khi một loạt nhà văn khổng lồ xuất hiện một lúc. Có khi vắng vẻ hẳn đi.

Nói như thế không phải là không thấy sự cấp bách của đổi mới. Nhưng để thấy rằng đổi mới không phải là cây đũa thần để sau đó trong văn học ta lập tức xuất hiện một loạt tác phẩm rực rỡ. Mà các nhà văn còn phải cố gắng rất nhiều.

Theo tôi, nên đánh giá lại văn học ta một cách công bằng. Văn học ta có lúc này, lúc khác, nhưng dòng chủ lưu vẫn là nói thật, ca ngợi thật, phê phán thật. Trước đây các nhà văn tiêu biểu của ta như Nguyễn Tuân, Nguyễn Công Hoan, Nguyên Hồng, Tô Hoài... đều có những tác phẩm "vấp váp" cả, nhưng vẫn theo lương tâm và sự hiểu biết của mình.

Nhà văn phải hoàn toàn tự do trong việc lựa chọn phương pháp sáng tác. Có lẽ nên nói ta chủ trương một nền văn nghệ xã hội chủ nghĩa, chứ không phải cụ thể đến mức là nền văn nghệ hiện thực xã hội chủ nghĩa. Có khi viết theo kiểu hiện thực là hay, nhưng có khi theo kiểu tượng trưng mới đạt. Gogol là ông tổ chủ nghĩa hiện thực Nga. Nhưng là tác giả Chiếc áo khoác. Balzac có Miếng da lừa. Không dám so sánh, nhưng tôi cũng có viết một số vở kịch "huyền thoại". Và truyện Dế mèn của anh Tô Hoài, thì cũng đã rõ là một tác phẩm quý của văn học ta.

P.V. - Là người phụ trách Tiểu ban Nội dung cho Đại hội Nhà văn sắp tới, xin anh cho biết những nội dung nào là cấp thiết, không thể không bàn trong Đại hội?

N.Đ.T: Vấn đề này phải có sự làm việc của Tiểu ban Nội dung và Ban Chấp hành thì mới đầy đủ được. Còn ý kiến của tôi thì thế này.

Trước nhất, phải có đánh giá văn học ta trong giai đoạn vừa qua. Bởi vì đổi mới làm thay đổi một cách nhìn, cho nên đây không phải là kể lại các tác phẩm đã xuất bản, mà phải nhìn chung lại, xem thử cái gì được, cái gì chưa được. Từ nay trở đi, sẽ bắt đầu làm việc theo một phương pháp mới, nhưng nó cũng phải trên nền tảng những cái mình làm được. Quan trọng nhất là đánh giá các tác phẩm, tuy rằng không phải giải quyết hết trong Đại hội. Vấn đề này rồi cũng quan hệ ngay đến việc giảng dạy lịch sử văn học. Những tác phẩm trước đây chúng ta hầu như cho là mẫu mực thì có thực không? Mẫu mực đến đâu? Riêng tôi, tôi rất quan tâm đến một số tác phẩm mà tôi cho rằng đã bị phê bình oan, quá đáng. Cũng không phải tất cả đều là những tác phẩm thật hay, nhưng đã bị phê bình oan, quá đáng thì phải được đánh giá lại. Những tác phẩm ấy trước đây, khi bị phê bình, thì bị gạt đi, không được in trở lại nữa. Những tác giả đã mất như Nguyễn Công Hoan thì không thể làm gì hơn được, nhưng nhiều tác giả còn sống, sau khi có sự đánh giá lại, có thể xem tác phẩm của mình, cái gì cần sửa, để giữ lại cho văn học.

Thứ hai, cần phải bàn về phương hướng sáng tác trong giai đoạn hiện nay. Về phương hướng này thì đại thể thời sự nóng hổi bây giờ là viết về cái tiêu cực. Ở đây, theo tôi về lý luận phê bình thì không có điều gì lớn: các nhà sáng tác cũng nhất trí thôi. Nhưng vấn đề là ở chỗ làm cho xã hội quen đọc những tác phẩm loại này. Ngoài ra, anh em có thể trao đổi kinh nghiệm căn cứ trên những tác phẩm trong giai đoạn vừa qua. Tôi thấy cần có cách nhìn dài một chút về phương hướng đi lên của xã hội chúng ta: con người thay đổi như thế nào, nó đòi hỏi những gì, đời sống nội tâm của con người ra sao...

Tôi nghĩ có những vấn đề cần đặt ra – tuy anh em ít quan tâm – về phương hướng chiến lược, mà các cơ quan nhà nước cần bỏ công sức ra mà làm, chứ không phải riêng nhà văn. Nó sẽ xây dựng cái nền cơ bản cho văn học ta, mà theo tôi vẫn chưa hoàn chỉnh. Ví dụ như vấn đề tiếng nói, trong đó có vấn đề tiếng nói phổ thông, tiếng nói của các dân tộc trong văn học. Rồi vấn đề dịch văn học thế giới (ở đây có vấn đề đào tạo cán bộ đấy); ở châu Á, có lẽ ta chỉ quen với Trung Quốc được ít nhiều thôi, còn Ấn Độ, Nhật Bản và các nước Đông Nam Á, và gần gũi nhất là Campuchia và Lào hầu như mình chưa dịch và chưa có cán bộ giỏi; ngoài ra còn có văn học của các nước thứ ba, chẳng hạn như cả thế giới A Rập, chúng ta chỉ biết Nghìn lẻ một đêm và mấy nhà thơ thôi, ngoài ra chưa biết gì. Mình muốn xây dựng nền văn học dân tộc thì phải có nền văn hóa độc lập, tự chúng ta đủ sức mở những cánh cửa ra thế giới.

Đại hội cũng nên để thì giờ mà bàn một ít về vấn đề văn học trong nhà trường; đó là vấn đề theo tôi có tầm quan trọng, tuy không nóng hổi nhưng không thể quên.

Còn những vấn đề thiết thân nhất đối với các nhà văn cố nhiên thuộc về sáng tác, trong đó có phương hướng, nội dung. Tuy không phải mất nhiều thì giờ nhưng cũng nên trao đổi về chế độ chính sách đối với nhà văn.

Cuối cùng, cố nhiên Đại hội phải bàn đến tổ chức của Hội Nhà văn, đến chuyện sửa đổi điều lệ.

P.V. - Là người đã nhiều năm làm Tổng thư ký, anh hình dung Tổng thư ký sắp tới phải là người như thế nào?

N.Đ.T. - Câu hỏi này của anh thì khó quá.

Có hai đòi hỏi, một về văn học, một về công việc. Thật ra, đứng về văn học, không phải Tổng thư ký là nhà văn tiêu biểu nhất của nền văn học. Đấy là người đảm nhiệm công việc quản lý Hội mà thôi. Thế nhưng vì của đoàn thể nhà văn nên cũng cần phải là một nhà văn thực sự. Vì đã có nơi, do tình hình phức tạp, đến lúc chọn thư ký lại không chọn nhà văn. Mà chọn cái người không phải nhà văn thì không lợi. Nên có một nhà văn và nhà văn này được anh em tin và mến do sự quan hệ với anh em, tấm lòng đối với anh em. Còn đứng về khả năng làm việc thì cố nhiên Tổng thư ký khác với Chủ tịch hay Hội trưởng là người phải quán xuyến công việc hàng ngày. Nên có một người biết làm tổ chức, tức là về tinh thần, có quan tâm đến các nhà văn; có tấm lòng. Còn về khả năng, thì trong một chừng mực nhất định, còn có tập thể anh em làm. Tổng thư ký, tôi nghĩ quan trọng nhất bây giờ chính là vấn đề tấm lòng (có lẽ anh em cũng mong cái đó hơn).

Thật ra Hội Nhà văn của ta là một cơ quan nhỏ. Chúng tôi thường đùa nó như con ếch ấy, tiếng to nhưng người thì bé! Không có cái gì cả! Nghèo quá! Sắp tới đây, Tổng thư ký phải làm công việc nặng nhọc là lo cho Hội có được cái quỹ, đủ để lo, nếu không được một cách chu đáo thì cũng được một phần tư hay một phần năm, nhu cầu để giúp đỡ các nhà văn trên toàn quốc. Trong tình hình kinh tế của ta bây giờ, vấn đề này không phải đơn giản (...).

P.V. - Nhiều nhà văn có ý kiến nên bầu trực tiếp Tổng thư ký, còn ý kiến của anh?

N.Đ.T: Tôi thấy hai phương án đều có cái lợi riêng. Nếu bầu Tổng thư ký trực tiếp thì có cái lợi là toàn thể anh em được chọn người chủ chốt trong Hội một cách dân chủ. Nhưng trường hợp như vậy thì Tổng thư ký sẽ ngang hàng với Ban Chấp hành. Nói một cách cho dễ hiểu và vui, nó cũng như là Tổng thống Mỹ và... (cười). Nếu xảy ra trường hợp Tổng thư ký có ý kiến riêng, khác với Ban Chấp hành thì không phân xử được, phải mời họp đại hội mới xong. Theo tôi, có lẽ cứ nên để Ban Chấp hành bầu thì hơn. Bởi vì như vậy thì mình tôn trọng tập thể hơn. Thứ hai là, giữa chừng Tổng thư ký chết chẳng hạn, thì Ban Chấp hành có thể bầu ngay Tổng thư ký khác, mà không phải triệu tập đại hội.

P.V. - Anh đánh giá vai trò của Hội Nhà văn trong đời sống văn học như thế nào?

N.Đ.T. - Dù sao Hội Nhà văn chúng ta cũng là một đoàn thể mà công việc chính là chăm lo giúp đỡ các nhà văn viết. Xây dựng nên nền văn học, theo tôi, là việc của cá nhân các nhà văn; Hội chỉ giúp thêm thôi. Thậm chí nói thế này thì cũng có thể có anh em đồng ý, có anh em không: nếu chúng ta may mắn có được những thiên tài lớn, thì có khi những ông ấy chẳng ở trong Hội Nhà văn nào cả mà vẫn làm cho văn học rất là lớn. Theo tôi, đó là một đoàn thể do các nhà văn tự nguyện lập ra với nhau, trước hết là để giúp đỡ lẫn nhau, bảo vệ quyền lợi chính trị, về đời sống, về phương tiện làm việc. Chứ còn về các vấn đề văn học thì không Hội Nhà văn nào có thể quyết được. Trong lĩnh vực văn học, nên theo đúng điều Lênin nói một cách rất khôn ngoan, là đừng dùng đa số thống trị thiểu số. Một tác phẩm được Hội Nhà văn tặng thưởng tức là đỗ Trạng Nguyên, thì không nên! Không nên để Hội Nhà văn có quá nhiều quyền đối với các nhà văn, không nên! Không nên để một nhà văn có làm được việc hay không là do có phải là hội viên hay không, không nên! Không nên để một nhà văn ví dụ Hội Nhà văn thi hành kỷ luật là coi như cuộc đời nhà văn đó lao đao, vứt bỏ, không nên!

Nên có nhiều tờ báo, nhiều nhà xuất bản không phải của Hội Nhà văn để lo về văn học. Đời sống văn học là rộng rãi, là của cả nước. Nếu có những nhà văn không thích vào Hội Nhà văn thì làm sao? Tôi biết cũng có những họa sĩ vẫn là hội viên Hội nghệ thuật tạo hình, nhưng chẳng bao giờ đến sinh hoạt cả, anh chỉ lo chuyện sáng tác thôi. Chẳng sao cả. Nên như thế, hơn là quan niệm một đoàn thể quá chặt chẽ. Vì thế cho nên việc lựa chọn anh em vào Ban Chấp hành cũng chỉ vừa phải.

 

Với nhà văn NGUYÊN NGỌC (Tổng biên tập báo Văn nghệ).

P.V. - Theo anh, báo Văn nghệ phải nhập cuộc như thế nào vào sự đổi mới?

N.N. - Trong công cuộc đổi mới Văn nghệ vào trận có hơi chậm; độc giả có người đã thất vọng. Đến giữa năm 1987, Văn nghệ mới bắt đầu chuyển.

Về hướng chung, tờ báo nào cũng phải đối diện thật với những vấn đề gay gắt của cuộc sống thật. Nhưng Văn nghệ phải có cách làm riêng của nó. Văn nghệ không thể dừng lại ở vụ việc, mà có thể – và phải đi sâu vào căn nguyên xã hội của nó. Khi chỉ nói đến một vụ việc cụ thể thì tuy có đích danh, nhưng chỉ động đến một hai người, còn khi qua vụ việc đó mà vạch ra cái cơ chế vô lý, trì trệ, cần cấp thiết tháo gỡ, thì động đến những vấn đề chung của toàn xã hội. Như thế thì sâu sắc hơn, nhưng tất nhiên khó khăn hơn.

 Những mảng phải chú ý đầu tiên là lý luận phê bình và văn xuôi.

Trong lý luận phê bình còn tồn tại không ít vấn đề gay cấn (như việc đánh giá văn học ta, quan hệ giữa văn học với hiện thực, văn học với chính trị...), mà việc giải quyết chúng, hay ít nhất dám thảo luận về chúng, sẽ hỗ trợ và mở đường cho sáng tác. Chúng tôi mời một số nhà lý luận phê bình viết bài, nhưng có người viết có người không. Để tạo điều kiện cho họ có thể phát biểu ý kiến mà không phải viết bài, chúng tôi tổ chức thảo luận bàn tròn.

Về văn xuôi, chúng tôi chú trọng và có ý định khôi phục một thể loại giàu tính chiến đấu nhưng bị mai một, đó là phóng sự. Chúng ta từng có những nhà văn viết phóng sự rất giỏi. Vũ Trọng Phụng chẳng hạn.

Ban đầu chúng tôi còn thăm dò, với bài Sách và điều vô lý, tuy vậy không phải không bị phản ứng. Và khi đến Lời khai của bị can thì đã vạch ra cái cơ chế vô lý muốn "chặt bằng đầu" tất cả: những người giỏi, ngoi lên làm giàu một cách chính đáng, đều bị đẩy bật trở lại đám đông trung bình. Là văn học nhưng cũng là báo chí, chúng tôi cần phải cẩn thận; đằng sau Lời khai của bị can, chúng tôi có hàng trăm tài liệu. Tuy thế mà các cơ quan có trách nhiệm trong vụ này chưa phải đã chịu đâu.

Điều quan trọng là với Lời khai của bị can, chúng tôi tin mình đã đi đúng hướng. Tuy nhiên, cho đến cuối năm 1987, tất cả chỉ mới là prélud. Đầu năm 1988, chúng tôi cố gắng đào sâu vấn đề hơn nhất là về nông thôn. Bắt đầu là Suy nghĩ trên đường làng (lúc đó chúng tôi đã có trong tay Cái đêm hôm ấy... đêm gì? nhưng đầu năm, chưa nên gay cấn quá ngay! Sau đó là Người đàn bà quỳ, Đêm trắng, Công lý, đừng quên ai!). Nếu Cái đêm hôm ấy... đêm gì? vạch ra thực trạng đời sống nông thôn, Người đàn bà quỳ nêu bật lòng khát khao dân chủ, thì Đêm trắng động đến vấn đề cơ chế quản lý ở nông thôn. Đấy chính là vấn đề rất sâu xa.

Báo Văn nghệ muốn đánh lên một tiếng chuông và tham gia giải quyết các vấn đề xã hội. Nhưng nhân dân cũng có cách giải quyết của mình. Cho nên, chúng tôi sẽ đưa lên Văn nghệ những con người mới; những người dân Thổ Tang trên số báo Văn nghệ sắp tới là ví dụ. Thực sự là mới thì bao giờ cũng lạ, rất lạ vì thoát ra ngoài quan niệm chính thống, phá vỡ định kiến của chúng ta. Ủng hộ cái mới và đã phá cái cũ là hai việc phải làm song song.

Nhưng lại có mặt khác của vấn đề. Không phải cứ nhất thiết bàn đến chuyện quản lý, chuyện tích cực, tiêu cực theo kiểu Ovetskin trong Chuyện thường ngày ở huyện, thì mới là thời sự. Còn một kiểu thời sự khác, đấy là cái thời sự kiểu Con tàu trắng hay Đoạn đầu đài của Aitmatov. Cho nên, chúng tôi rất mừng có được Nguyễn Huy Thiệp với Tướng về hưu, Muối của rừng, Kiếm sắc... (Trong mạch suy nghĩ đó, tôi cho rằng Đêm nhạc Văn Cao không làm chúng ta mềm yếu đi như có người đã lo, mà trái lại, giúp chúng ta mạnh lên trong cuộc sống).

Đến nay, sau khi các mảng lý luận phê bình và văn xuôi đã tương đối có hướng đi, chúng tôi bắt đầu chú trọng về thơ. Và khi bắt tay vào xây dựng mảng thơ, mới vỡ lẽ không phải trước đây thơ không hay mà là do tình trạng chung về thơ vốn làng nhàng như thế. Thơ trên Văn nghệ đã bắt đầu chuyển động. Chúng tôi cho rằng rồi đây có thể thơ còn dữ dội hơn cả văn xuôi. Nghe đâu đã có nơi quy định phổ biến báo Văn nghệ trên các phương tiện truyền thông địa phương thì phải được cấp nào đó duyệt, đặc biệt là thơ!

Một số đồng chí trong các cơ quan quản lý, chúng tôi biết, rất lo Văn nghệ đi quá đà, kích động quần chúng, làm nặng nề hơn tình hình. Chúng tôi không nghĩ thế. Sự đổi mới làm tăng lòng tin của quần chúng, chỉ có bảo thủ mới làm mất lòng tin mà thôi. Quần chúng đã được tôi luyện trong lò lửa chiến tranh. Hoàn toàn có thể tin vào sự hiểu biết của quần chúng. Ta nói lấy dân làm gốc, sao cứ sợ dân dốt!

P.V. - Trong tình hình hiện nay, những khó khăn chủ yếu của một tổng biên tập, chẳng hạn Tổng biên tập báo Văn nghệ, là như thế nào, thưa anh?

N.N. - Theo tôi có hai loại khó khăn.

Một là, yêu cầu của người phụ trách rất cao. Ta đang sống trong một quá trình thay đổi để tiến lên trong một tình hình phức tạp, khó khăn và tế nhị. Lại còn có giặc ngoài nữa. Cho nên, khó khăn là người chủ trì phải định hướng cho đúng, tính đường đi nước bước cho đúng. Văn nghệ được độc giả trông chờ, theo dõi từng số một. Trước đây chúng tôi có thể dềnh dàng, nay thì không được nữa. Đấy là cái khó khăn của sự trưởng thành.

 Hai là, tiến nhanh thì lực cản càng quyết liệt hơn. Có thế lực bảo thủ vì quyền lợi mà chống, nhưng cũng có người chân thành lo lắng mà cản.

P.V. - Anh hình dung như thế nào về một Tổng thư ký sắp tới của Hội Nhà văn?

N.N. - Công việc sáng tác là của từng người, Hội Nhà văn không thể bao biện gì được. Vấn đề là phải tạo điều kiện cho hội viên làm việc. Tổng thư ký không thể làm cho người khác không có Raphael trong mình thành ra Raphael được. Cũng như quản lý kinh tế, trong quản lý văn nghệ, chúng ta bao cấp tất, "tổ chức" tất, không để cho phát triển tự nhiên. Một sự phát triển tự nhiên phải là: nhà văn có tài thì được quan tâm, sao cho có thể bộc lộ hết tài năng của mình, còn nhà văn bất tài thì không cần phải quan tâm lắm. Mà tài năng thực sự thì không những bao giờ cũ, mà còn lạ. Tôi cho rằng Tổng thư ký phải là người biết quý trọng tài năng.

P.V. - Nhiều người có ý kiến trong Đại hội sắp tới Tổng thư ký nên được bầu trực tiếp. Còn ý kiến anh?

N.N. - Nên giao quyền làm chủ thực sự cho Đại hội. Ta không nên cho mình khôn ngoan hơn 500 nhà văn. Và nếu 500 nhà văn chọn một Tổng thư ký không xứng đáng, thì điều đó cũng phản ánh đúng trình độ của nhà văn ta, vì mình kém nên chọn một ông Tổng thư ký kém! Còn nếu nhỡ giữa nhiệm kỳ Tổng thư ký có "làm sao" đó, thì Ban Chấp hành cử người thay, có sao đâu.

 

Với TRẦN DẦN - đối thoại mất ngủ

Tháng 5, anh Trần Dần vô chơi Huế, cùng đi với Phùng Quán. Trần Dần đã đến Huế lần đầu tiên vào năm 1946, lúc bấy giờ anh mới 21tuổi; đây là chuyến giang hồ dành riêng cho tình yêu, với một người đẹp nay đã biệt tích trong đời.

Vừa đến Huế trong một tuần lễ. Trần Dần đã tiếp xúc với công chúng hai lần, ở Hội văn học nghệ thuật Bình Trị Thiên và ở Nhà văn hóa Thanh niên thành Đoàn Huế. Ở cả hai nơi đó – Trần Dần thú nhận – "lúc đầu tôi cảm thấy rét vì phải đối diện với đám đông, sau đó lại quá xúc động vì tính chất thẳng thắn của những câu hỏi đặt ra cho tôi. Cả hai cuộc đối thoại sau đó đều làm tôi mất ngủ". Tôi để ý thấy trong lúc nói chuyện, Trần Dần thường dừng lại đột ngột và gõ "cộp... cộp..." vào micrô, dù nó vẫn hoạt động tốt: hóa ra là từ 30 năm nay anh không hề biết tới cái micrô, và bây giờ thỉnh thoảng anh chợt thấy im bặt, không nghe được tiếng nói của mình.

Lần thứ ba trong tuần, chúng tôi gặp lại Trần Dần trong một cuộc rượu bảy tám anh em văn chương ở nhà Ngô Minh nơi dốc Bến Ngự, gần khu vườn cũ của cụ Phan Bội Châu. Chúng tôi quyết định tiếp tục cuộc đối thoại với thi sĩ, trên những vấn đề gợi mở từ hai cuộc gặp gỡ trước. Sau đây là câu hỏi của từng người và ý kiến riêng của Trần Dần; dưới ánh đèn dầu tù mù (vì cúp điện), tôi ghi lại.

HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG - (mở đầu) Thưa anh, con người sống ai cũng cần có nhân cách, nhà văn lại càng phải có nhân cách. Theo anh, nhân cách nhà văn quan trọng nhất là ở chỗ nào?

TRẦN DẦN - Nhân cách nhà văn chính là văn cách của anh ta. Tôi không thấy modern nào cho văn cách cả. Văn cách không chung cho ai. Văn là mình, không thằng nào giống thằng nào. Nó phải tự khẳng định cái tôi của nó, và không lùi một ly. Hồ Xuân Hương, Cao Bá Quát là chính mình, không lùi một ly.

NGUYỄN QUANG LẬP - Xin hỏi thật anh: Qua thời Nhân văn, anh tự thấy anh được cái gì nhiều nhất?

TRẦN DẦN - Được cái hoạn nạn. (Thi sĩ chợt im lặng, và tất cả chúng tôi cùng im lặng trong nỗi xúc động). Rồi anh tiếp: Do được hoạn nạn nên được không dưới ba chục tác phẩm trong 30 năm. (Tôi xin ghi lại ở đây một số tác phẩm của Trần Dần trong yếu mục sáng tác của tác giả: Chiều mưa trước cửa (1943); Hồn xanh dị kỳ (1944); Dạ đài (1945) vẽ và viết báo Sông Đà, Giải phóng Tây Bắc, Giải phóng biên giới v.v... (1946-1949); Tiếng trống tương lai (1945), Người người lớp lớp, Nhất định thắng, Cách mạng Tháng Tám (1955-1956); Đây Việt Bắc (1957); 17 tình ca (1958-1959, nằm); Cổng tỉnh (1960, thi tập nằm); Đêm núm sen (1961, tiểu thuyết, nằm); Con trắng (Thơ hồi ký, nằm); 177 cảnh (1968, hùng ca lụa, nằm); Động đất tâm thần (1974); Thơ không lời (1978); Thiên Thanh - 77 - Ngày ngày (Bộ tam, 1979) 36 - Thở dài - Tư Mã Dâng Sao (Bộ tam, 1980; Thơ Mini (1987)...

NGUYỄN QUANG LẬP - Có dư luận cho rằng các anh làm dự báo tốt. Nhưng văn cách thì các anh làm chưa thành công, theo tôi. Vì bạn đọc chưa hâm mộ như trường hợp Bác sĩ Zhivago.

TRẦN DẦN - (một chân bị liệt cơ, phải ngồi trên đòn, đứng dậy vịn ghế cho đỡ mỏi) Ngay độc giả của mình cũng chưa biết mình muốn cái gì. Họ nói thế, nhưng họ xác định bằng cái gì? Tiền chiến chỉ quan trọng khi họ chưa biết chúng tôi là ai. Tôi chưa có độc giả. Tác phẩm của tôi sẽ đảm bảo công chúng của tôi.

VĨNH NGUYÊN - Nhật Bản có thơ Haiku; anh có thơ Mini ngắn hơn. Có người nói thơ Haiku ngắn nhưng dễ hiểu. Vậy thơ Mini định ngắt người đọc tới đâu?

(Đêm trước ở Hội Văn nghệ, Phùng Quán đã có dịp giới thiệu thơ Mini của Trần Dần, bài chỉ một hoặc hai câu. Thí dụ như thế này: Mưa rơi không cần phiên dịch; hoặc Mỗi người một vụ án - Mỗi người chôn sống một chân mây, v.v...).

TRẦN DẦN - (ừ, ừ... ngẫm nghĩ) Thơ Haiku mọi người biết rồi. Thơ Mini nay ai cũng chưa biết. Chính tôi cũng chưa biết nó là gì. Nên không thể so sánh. (Một lát, tiếp) chống công thức là đi tìm cái chưa biết. Cái mới là cái chưa biết. Tôi đi tìm cái mới nên tôi cũng chưa biết thơ Mini là gì.

NGÔ MINH - Một điều anh em rất trăn trở, nhân thơ Mini của anh Trần Dần. Mình muốn chữ cho đắt cho hay thì thơ lại mất đi cái lửa. Chữ trong thơ yêu cầu rất cô. Nếu không có lửa thì thơ không xúc động, nếu viết theo tình thì chữ lại dàn trải quá.

NGUYỄN QUANG LẬP - (bổ sung) Nếu chỉ có chữ hay thì chỉ là một bức tranh đẹp anh trình bày bằng chữ. Có lẽ đúng như thế.

TRẦN DẦN - Nó mâu thuẫn nhau rất dữ: cái biết rồi là nghĩa, cái chưa biết là chữ. Cái chưa biết là cái thăm thẳm. Anh làm câu châm ngôn hay như Khổng Tử là chưa phải thơ. Nhảy qua bóng mình mới là thơ. Mình chưa hiểu thơ vì khó mà nhảy qua bóng mình.

HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG - Lão Tử nói: "vô danh thiên địa chi thủy - Hữu danh vạn vật chi mẩu" (vô danh là khởi đầu của trời đất – hữu danh là mẹ của vạn vật). Như thế có gì khác với thơ Mini không?

TRẦN DẦN - Đó là triết học. Triết học cũng là thăm thẳm.

NGUYỄN QUANG LẬP - Lúc nãy anh Dần nói sở dĩ vậy là vì anh chưa có độc giả. Nhưng thời đó các anh có độc giả, ai cũng từng biết Người người lớp lớp, Vượt Côn Đảo v.v... Tôi xin hỏi: nhiều người nói nếu in lại những tác phẩm đó thì độc giả ít dần đi. Vậy là văn cách chưa đủ sống với thời gian. Anh Dần nghĩ sao?

TRẦN DẦN - Thời đó là độc giả tiền chiến. Chúng tôi cướp độc giả tiền chiến, và sau đó họ cấm chúng tôi nên chúng tôi chưa kịp có độc giả. Bây giờ chúng tôi sẽ phải chiếm lại độc giả. Chúng tôi đã 30 năm khuất bóng.

NGÔ MINH - 30 năm trước các anh có độc giả. Rồi im bặt. 30 năm sau anh lại, liệu có độc giả hay không?

TRẦN DẦN - chúng tôi sốt ruột in, tôi mong in để xem. Tốc độ bây giờ nhanh lắm, 30 năm ba thế hệ, chúng tôi chỉ là một nhịp cầu để tới thế hệ mới. Đó là một thách thức. Aragon đi mãi với thế hệ trẻ. Chúng tôi cũng hy vọng như vậy.

NGÔ MINH - Đọc lại Vượt Côn Đảo của Phùng Quán, thấy lý tưởng cao lớn, nhưng văn cách thì thế hệ trẻ bây giờ lớn hơn nhiều. Văn cách Vượt Côn Đảo rất vỡ lòng, dù tôi rất kính trọng về lý tưởng. Nguyễn Quang Lập chẳng hạn, bây giờ văn cách lớn hơn nhiều...

PHÙNG QUÁN - Nếu Lập nó chỉ viết bằng tôi thì tôi phải đập cho nó vỡ mặt...

HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG - Giá như Truyện Kiều vừa mới được viết xong bây giờ, do một tác giả trẻ nào đó ở trường Nguyễn Du của Hội Nhà văn đem nộp bản thảo cho nhà Tác phẩm mới. Liệu người ta có thèm in hay không?

PHÙNG QUÁN - Đúng quá, Bây giờ phải viết, hay hơn Nguyễn Du chứ.

HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG - Không thể viết hay hơn Nguyễn Du nổi. Vấn đề là phải viết khác Nguyễn Du.

TRẦN DẦN - Thế giới bây giờ mong nếu anh có được một độc giả là sướng rồi, được hai ba độc là may quá.

NGUYỄN QUANG LẬP - "Tôi chỉ viết cho những người bằng vai", anh Trần Dần đã có lần nói như thế. Vậy có phải anh chủ trương nghệ thuật phi giao tiếp, hoặc nghệ thuật dành cho những người đặc tuyển hay không?

TRẦN DẦN - Không. Nhưng quần chúng văn học của anh như thế nào thì là do anh tạo ra. Do đó, tôi cho rằng tôi viết cho những người bằng vai.

NGUYỄN QUANG LẬP - Khrapchenco có nói rằng không nên đánh đồng tính dễ hiểu với sự tầm thường; nhưng tính dễ hiểu với sự tầm thường cũng là một đặc trưng của văn học. Anh nghĩ thế nào về điều đó?

TRẦN DẦN - Tôi không coi Kravchenco là cái gì cả. Tất cả mọi giá trị. Chân Thiện Mỹ đều là khó hiểu. Khoa học cũng khó hiểu, trượt băng nghệ thuật cũng khó hiểu.

NGÔ MINH - Độc giả ở Hội hỏi anh: thế giới anh thích ai nhất? Tiền chiến ai nhất? Thời anh, anh nể ai nhất? Sau anh, anh đọc ai?

TRẦN DẦN - Thế giới nhiều lắm nhưng tôi nói về văn học Pháp. Xuất phát tôi yêu Manlacmo, Baudelaire rồi nhất là Rembô. Tôi tiếp tục đọc, những cái gốc là ở phía trước. Dòng Rabơle tiếp tục cho đến bây giờ là Céline (Céline, hồ sơ đen số một của Liên Xô thời Xtalin. Céline là tác giả của tiểu thuyết Đi đến tận cùng đêm).

Tiền chiến Việt Nam, tôi thích Vũ Hoàng Dương, Đinh Hùng, Vũ Trọng Phụng, vớt vát thêm thì còn Thạch Lam.

Thời bọn tôi, ngoài bọn Nhân Văn thì tôi chẳng còn thích ai. Hoàng Cầm là tên lãng mạn, Xuân Diệu vốn là lãng mạn tiền chiến.

Thế hệ trẻ à? Tôi cứ mong đợi mãi. Nó bị trong vòng vây của văn chương cung đình, tôi sốt ruột đợi lớp trẻ đủ sức lớn lên để chôn bọn tôi, như chúng tôi đã chôn tiền chiến.

HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG - Cho phép tôi quay lại trước một chút. Tôi e rằng anh đánh giá Đinh Hùng hơi quá, ngoại trừ việc thích hoặc không thích. Tôi có dịp đọc Đinh Hùng khá nhiều, xin lỗi anh, tôi thấy văn chương ông ta lòe loẹt, có cái gì ghê ghê, như là son phấn. Nếu tôi nhớ không nhầm, thì ngay trong Thi Nhân Việt Nam Hoài Thanh cũng chỉ xếp Đinh Hùng ngồi ở "chiếu ba" trong làng văn lúc đó...

TRẦN DẦN - Đinh Hùng thời đó là không có chiếu gì. Nhưng Ngõ Bò (gần Bạch Mai, thời đó là nhà ông Đinh Hùng và Vũ Hoàng Chương) là trung tâm thu hút. Ai cũng thấy Đinh Hùng là thi sĩ tượng trưng đầu tiên của Việt Nam, trong Mê Hồn Ca, Lạc Hồng Ca... Thơ Đinh Hùng như thế này: Nửa mặt phù sinh nép hậu trường. Tôi thích là vậy.

HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG - Tôi rất thú vị về cái quyết tâm "chôn tiền chiến" của thế hệ các anh. Đọc lại văn của các anh thời đó, đã in hoặc trên bản thảo, tôi lạ lùng thấy các anh đã làm nổi cái việc khủng kiếp ấy, là vừa đánh Điện Biên Phủ, vừa: "chôn tiền chiến". Tôi biết, cho đến bây giờ nhiều người trong công chúng văn học vẫn chưa hết bị ám ảnh về cái lộng ngữ "vĩ đại như tiền chiến". Dù rằng, ai cũng biết điều này, mãi mãi tiền chiến vẫn đã tạo ra được những thành tựu lớn lao cho đời sống văn học, so với thời kỳ trước của nó. Tôi cũng sốt ruột mong cho sách của các anh viết thời đó, hoặc viết thầm lặng trong 30 năm qua, sẽ nhanh chóng được tái bản hoặc công bố, để có thể nhìn lại sự Đổi Mới đích thực của văn học "sau tiền chiến". Tôi cho rằng lúc đó, câu chuyện văn chương "minh họa" hay "không minh họa" chắc lại còn nhiều điều hạ hồi phân giải.

VĨNH NGUYÊN - Thưa anh ca dao như thế nào? Tôi nhớ thơ anh nói: "Sấm con gái – Lúa con gái". Thế cũng như "Lúa non ngấp nghé đầu bờ – Hễ nghe tiếng sấm phất cờ mà lên". Vậy chính Trần Dần cũng là ca dao.

TRẦN DẦN - Đó là di sản dân tộc, một ông thầy phải đặt ngang như Nguyễn Du, Cao Bá Quát. Phải học, để mà chôn đi.

PHÙNG QUÁN - Các anh tiếp xúc với Trần Dần vài buổi đã thấy là bằng vai. Thì ngay anh em mình trước cũng không hiểu Trần Dần. Nay hiểu, vật lộn để hiểu nhau chính là vấn đề "bằng vai"

(Nghe Phùng Quán dùng chữ "vật lộn tôi nhìn lại: tất cả từ bao giờ đều đã đánh trần chỉ trừ ông Trần Dần vẫn mặc áo, tay nào tay ấy mồ hôi ròng ròng. Đêm nóng, điện cúp, nói nhỏ kẻo phiền hàng xóm, nhưng mọi cặp mắt đều có vẻ gì quyết liệt).

NGUYỄN QUANG LẬP - (Đứng dậy, chống hai tay vào hông cho đỡ nóng) Tôi muốn hỏi lại, các anh đã bị đưa ra khỏi Hội Nhà văn ba năm, sau đó thành 30 năm. Tại sao khi người ta yêu cầu các anh viết đơn để được vào lại các anh lại viết?

TRẦN DẦN - Lúc ấy tôi thật khó xử. Nếu theo mạch của tôi, thì tôi ghi vào phản Nhật ký, là đốt hết và chết luôn, như nhà sư tự thiêu. Nhưng nghĩ lại mình tuổi già đã hết cái máu rồi. 63 tuổi, nếu được hoạt động hai năm nữa cũng quý rồi, cố mà ra khỏi nó. Nhưng tôi biết, phục hồi thì cũng vô thưởng vô phạt chỉ là hình thức thôi. Sau đó nhiều người chất vấn tôi mà tôi không trả lời được. Như thế quả là hèn thực. Đáng lẽ là một Silence de la mort. Đó là cách trả lợi Mini nhất.

(Tan cuộc, nhìn lại đã gần 12 giờ khuya).

TRẦN DẦN - (chống gậy khập khiểng ra cổng, lầu bầu)

- Lại mất ngủ!

 

w Nguồn: Sông Hương

Mục lục

18-3-10