Tôi làm “chính trị”
 Nhng k nim và trăn tr

 

Hồi ký 

Nguyễn Trung 

Phần ba:  Suy ngẫm


8

 

 Trở về Đoạn trước...

I. Về Đại hội XII của ĐCSVN và sự lựa chọn của tôi

 

Đại hội XII, theo tôi là cơ hội chiến lược thứ 5 kể từ 30-04-1975 bị bỏ lỡ: Vào lúc tình hình đất nước có nhiều vấn đề nghiêm trọng, cuộc cải cách chính trị nhất thiết phải thực hiện đã chín muồi, ĐCSVN nắm quyền quyết đinh tuyệt đối vận mệnh quốc gia lẽ ra phải tiến hành cuộc cải cách này, nhưng tại đại hội XII chỉ tập trung giải quyết tranh giành quyền lực phe nhóm.

Tôi đã viết khá nhiều về Đại hội này trong những năm chuẩn bị Đại hội và sau Đại hội, đã đi tới kết luận: Đại hội XII là một thất bại chung của cả nước[1]. Tại đây chỉ xin lưu ý một số điều vẫn còn nguyên vẹn tính thời sự trong những bài đã viết.

Bối cảnh tiến hành Đại hội XII có 2 đặc điểm quan trọng so với những đại hội trước: (1)Tình hình đấu tranh trong nội bộ Đảng tiến tới nguy cơ phân hóa và phân rã theo chiều hướng một bên thắng, một bên thua; (2)cục diện thế giới sang trang đi vào trật tự quốc tế mới có những biến đổi quyết liệt, nhất là Trung Quốc coi như cơ bản đã hoàn thành trên thực tế (de facto) mục tiêu chiếm và quân sự hóa Biển Đông. Tình hình này đặt ra nhiệm vụ chính trị cho Đại hội XII là

(a)             phải tạo ra cho đất nước sức mạnh thống nhất với những quan điểm mới thích hợp bảo vệ vững chắc chủ quyền và lợi ích quốc gia,

(b)            chủ động giành lấy vị thế mới trong cục diện thế giới đã sang trang, đưa đất nước vào thời kỳ phát triển mới.

Song diễn tiến của quá trình chuẩn bị Đại hội, theo nhận định của tôi: Chỉ tập trung vào kịch bản giải quyết thắng / thua giữa một bên nhân danh chống tham nhũng, và một bên nhân danh bảo vệ chủ quyền Biển Đông (được hiểu nôm na là chống Trung Quốc, mở cửa đi với Mỹ!..). Cả 2 bên này trên thực tế đều bỏ sang một bên đòi hỏi cải cách chính trị và gác lại những vấn đề quan hệ quốc tế (phần nói về những vấn đề này trong dự thảo báo cáo chính trị ĐH XII thật ra chỉ là chiếu lệ cho đủ mâm đủ bát, không có gì khác với ĐH XI).

Tôi nghĩ tiến hành đại hội như thế là một xu thế nguy hiểm, vì bên nào thắng đất nước cũng thua, bởi những lẽ sau đây:

1.     Giả định bên chống tham nhũng thắng, nhưng không cải cách chính trị có chống được tham nhũng không? – vì nguồn gốc của tham nhũng nằm trong bản chất hệ thống chính trị của cả nước, trước hết là từ trong ĐCSVN. Chống tham nhũng không phải chỉ để chống tham nhũng đã xẩy ra, trước hết nó phải phục vụ mục tiêu tối thượng là hình thành một thể chế dân chủ giải phóng kinh tế, đẩy mạnh đất nước phát triển, đồng thời từ nay trở đi có khả năng hạn chế xuống mức thấp nhất nguy cơ tham nhũng mới; tuyệt đối không được lạm dụng chống tham nhũng chỉ để mỵ dân và củng cố quyền lực của chế độ toàn trị.

2.     Giả định bên chống Trung Quốc thắng, nhưng giữ nguyên hệ thống chính trị và tình trạng tham nhũng như đang diễn ra, làm sao đất nước có thể phát triển lành mạnh và thắng được những âm mưu của Trung Quốc? Chống như thế là thật hay giả vờ? 4 cuộc kháng chiến đẫm máu đã phải trải qua, 43 năm độc lập vừa qua với bao nhiêu kinh nghiệm cay đắng, tất cả chẳng lẽ vấn chưa đủ để dứt bỏ cái lối tư duy theo ai / chống ai, đất nước vẫn chưa đủ lớn để khai phá và quyết đi con đường tự khẳng định chính mình hay sao?

3.     Bên nào thắng, đất nước cũng yếu đi, vì thiếu sức mạnh thống nhất của cả nước, còn đảng nắm quyền vẫn tiếp tục lối mòn của chế độ toàn trị. Trong thế yếu như vậy, dù bên nào thắng Trung Quốc vẫn có thể dễ dàng thao túng và can thiệp sâu hơn nữa.

4.     Nếu để cho ngọn cờ chống tham nhũng hay ngọn cờ chống Trung Quốc trở thành công cụ mỵ dân, để củng cố quyền lực phe nhóm, việc nào cũng sẽ không thành, đất nước chỉ càng suy yếu, nhân dân bị chia rẽ thêm và bị đánh lạc hướng nghiêm trọng, sức mạnh đất nước tan nát, kết quả chung cuộc đều mở đường cho Trung Quốc can thiệp sâu thêm nữa.

5.     Nhất thiết nước ta phải duy trì quan hệ hữu nghị, và hợp tác bình đẳng, xây dựng, lâu dài với Trung Quốc, không thể bê nước ta đi vùng trời nào khác được! Song không phải như cách đang  làm như từ sau Hội nghị Thành Đô cho đến hôm nay. Thực tế gần 3 thập kỷ vừa qua chứng minh con đường Thành Đô là thảm họa cho đất nước, đồng thời cũng làm ta mất luôn cả khả năng thực hiện hữu nghị thật, hợp tác thật với Trung Quốc! Về nhiều mặt sự lệ thuộc và phụ thuộc của nước ta hiện nay vào Trung Quốc ở mức độ vô cùng nguy hiểm.

6.     Đất nước có chế độ một đảng mà không chăm lo đổi mới thường xuyên đảng, tất yếu trở thành đảng của tha hóa quyền lực. Thực tế 43 năm qua của nước ta cũng cho thấy không cải cách thể chế chính trị để tạo ra một môi trường vận động mới của đảng, mọi nỗ lực đổi mới xây dựng đảng như đang làm chỉ là thuốc phiện giảm đau và đánh lừa mọi người, kể cả dưới ngọn cờ chống tham nhũng. Kinh tế thị trường – nhà nước pháp quyền – xã hội dân sự là trụ cột tồn tại và phát triển của quốc gia, đó chính là thể chế duy nhất đảng phải lựa chọn làm môi trường sống và phấn đấu của mình chừng nào đảng còn muốn giữ vai trò lãnh đạo đất nước. Nhưng 43 năm qua Đảng không lựa chọn con đường này.

7.     Từ đại hội VI năm 1986 đến hôm nay cho thấy nhất quán: Bất kỳ một đại hội đảng nào không đề cập đến cải cách chính trị, thì dù ai hay nhóm nào lên nắm quyền cũng chỉ là “same same” mà thôi: tiếp tục củng cố chế độ toàn trị, chấp nhận nằm trong quỹ đạo Trung Quốc và ngày càng lệ thuộc hơn. Đại hội XII càng như vậy. Đại hội VI chấp nhận cải cách kinh tế, tình hình đất nước được cải thiện đáng kể, song Đảng lại quyết không cải cách chính trị, nên đã dẫn tới con đường Thành Đô hôm nay!

8.     Thời điểm Đại hội XII có một điểm tương tự mang tính bước ngoặt như thời điểm trước sự kiện hội nghị Thành Đô, song trong  tình thế ngược lại. Vào thời điểm hội nghị Thành Đô lãnh đạo ĐCSVN có cơ hội quyết định, lẽ ra phải lựa chọn cho quốc gia con đường độc lập tự chủ, tự khẳng định chính mình trong thế giới này, thì lại lựa chọn chui vào quỹ đạo Trung Quốc. Tại thời điểm đại hội XII, lẽ ra đứng trước những thách thức nội/ngoại mất còn, phải quyết định cải cách chính trị để tạo ra sức mạnh quốc gia đảo ngược tình thế này, giành lấy vị thế mới phải có trong thế giới đã sang trang, thì lại tập trung lo giải quyết vấn đề thắng / thua phe nhóm, củng cố chế độ toàn trị, được ngụy trang bằng “độc lập dân tộc gắn với CNXH” và “kiên định CNML”, đành cam chịu hay cố tình chấp nhận rơi sâu hơn nữa vào bên trong quỹ đạo Trung Quốc.

9.     Cũng như ngay sau khi thế chiến II kết thúc, thế giới hôm nay đã chuyển sang một giai đoạn mới khác hẳn so với trước đó. Trong cục diện quốc tế mới hôm nay, nổi lên là những đặc điểm: (a)dưới tác động của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, quá trình toàn cầu hóa kinh tế càng quyết liệt hơn trước về mọi mặt, xuất hiện nhiều thách thức mới chưa có tiền lệ trên mọi phương diện; (b)sự tranh giành trong cục diện quốc tế mới của thế giới đa cực hôm nay phức tạp hơn rất nhiều so với thời kỳ dẫn đến chiến tranh thế giới II, chiến tranh lạnh II đã bắt đầu với nhiều chiến tranh nóng cục bộ, mang tính đột biến - trong đó Biển Đông và Đông Bắc Á là 2 trong những khu vực tiềm  tàng tranh chấp lớn với những biến động lớn; (c)mỗi quốc gia đứng trước đòi hỏi gay gắt hơn bao giờ hết phải tăng cường sức mạnh tự thân, đồng thời phải đủ khả năng giành lấy cho mình vị thế mới và liên kết mới; “America first!” của Trump chúng ta nên hiểu là “thân ai nấy lo!”. Trong một cục diện thế giới mới như vậy, Việt Nam không còn đường lùi, nếu không thông qua cải cách chính trị để giành lấy sức sống mới và con đường phát triển mới, đồng nghĩa với tự nộp mạng cho quá trình phục hưng của đế chế Trung Hoa![2]

10.        Từ hội nghị Thành Đô có một diễn tiến / xu thế xuyên suốt và bao trùm đời sống đất nước: Chế độ chính trị càng tha hóa, càng xung đột và mâu thuẫn với dân, do đó càng đàn áp dân quyết liệt. Số các vụ trấn áp, các án tù trấn áp và những hành động đàn áp khác từ khóa đại hội ĐCSVN lần thứ X cho đến nay cao vọt hẳn so với trước và khắc nghiệt hơn trước, song tình hình không vì thế mà dịu đi. Ngược lại: Mâu thuẫn giữa chế độ chính trị với nhân dân đang ngày càng tăng một cách nguy hiểm, lãnh đạo đảng và nhà nước (dù cho các thành viên của nó thuộc phe nhóm nào) hầu như không có đối sách gì khác là trấn áp quyết liệt hơn nữa, vị thế của lãnh đạo do đó càng suy yếu tiếp và nội bộ càng phân hóa, với hệ quả lại càng phải “dựa” vào TQ nhiều hơn nữa để tồn tại. Do ngày càng “theo”, “sao chép” hay “nhân nhượng” TQ nhiều hơn nữa, nên một mặt đảng trì hoãn thực hiện các quyền của dân đã ghi trong Hiến pháp, mặt khác bỏ bễ nhiều cam kết đã ký kết với các đối tác chiến lược khác – nhất là trên các vấn đề dân chủ, các quyền tự do của nhân dân, vấn đề nhân quyền..! Làm như thế đảng và chế độ lại càng mất dân tiếp, lại phải gia tăng đàn áp tiếp! Cái vòng luẩn quẩn này chẳng những làm suy yếu đất nước mà còn tạo ra cơ hội cho tham nhũng tiêu cực khoảng 15 năm qua bùng phát chưa từng có, đất nước có thêm ngày càng nhiều những hiện tượng của chủ nghĩa tư bản mại bản, sự lệ thuộc vào TQ gia tăng giữa lúc đất nước đứng trước những thách thức quyết liệt của trật tư quốc tế mới. Nếu vì quốc gia và vì đảng, đại hội XII nhất thiết có nhiệm vụ phải chặt đứt cái vòng luẩn quẩn này! - 

Hôm nay phải nói: Trong 43 năm độc lập thống nhất đầu tiên trí tuệ và ý thức hệ của đảng không nhận ra 5 nguyên nhân đã tạo ra cái vòng luẩn quẩn nói trên, đó là: (a) nhiều quyền tự do dân chủ của công dân bị tước đoạt, (b) đất nước lạc hậu và tụt hậu tiếp so với thiên hạ , (c) quyền lợi, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia bị xâm phạm nghiêm trọng, (d) sự lệ thuộc của ta và sự can thiệp của quyền lực mềm TQ ở mức nguy hiểm, (e) lòng dân bất bình và không yên. Thậm chí từ hội nghị Thành Đô cho đến hôm nay, lãnh đạo đảng chấp nhận đó là cái giá phải trả để bảo toàn chế độ toàn trị được mệnh danh là độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội! Vì lẽ này, đại hội XII không coi chặt đứt cái vòng luẩn quẩn này là mệnh lệnh tối cao của quốc gia trong trật tự quốc tế mới hôm nay! Nguy hiểm hơn nữa, nội dung nghị quyết đại hội XII còn nhấn mạnh phải kiên trì hơn nữa với định hướng xã hội chủ nghĩa và trung thành với CNML.

Mười lý do trên đây khiến tôi đã 2 lần đề nghị đại hội đảng phải có cách tiếp cận khác: Làm gì cũng phải trước hết tìm cách thoát ra khỏi cái vòng luẩn quẩn của quyền lực tha hóa đang uy hiếp đất nước và trói đảng, bắt đầu từ cải cách chính trị và đổi mới đảng. Trong tình hình như vậy đại hội XII chỉ được phép có một phương án: Đất nước thắng, và đảng lành mạnh thắng để trở thành đảng của dân tộc, mở ra cho đất nước con đường phát triển mới, dứt khoát không để cho lợi ích phe nhóm thắng! Chỉ có như thế mới có thể tiếp tục được sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc trong tình hình mới.

Lần thứ nhất: Nhân dịp tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng thay mặt Bộ Chính trị tại Hội nghị TƯ 4 và TƯ 6 khóa XI nhận lỗi trước nhân dân và toàn Đảng về tình trạng tham nhũng đã xảy ra, tôi đã đề nghị toàn thể Bộ Chính trị tự nhận kỷ luật từ chức để làm gương cho toàn Đảng, và cam kết không ra ứng cử trở lại, song phải nhận trách nhiệm trước cả nước và toàn Đảng hoàn thành soạn thảo chương trình cải cách chính trị, đưa ra xin ý kiến nhân dân, và cuối cùng Đại hội Đảng phê duyệt, thông qua, toàn đảng thực hiện. Đề nghị này nhằm chủ động chấm dứt và loại hẳn sang một bên đấu tranh phe nhóm trong đảng, để tập trung nỗ lực của toàn đảng cho những nhiệm vụ đất nước đòi hỏi, trước hết là tiến hành cải cách chính trị[3].

Lần thứ hai: Trong quá trình chuẩn bị Đại hội XII, song song với những việc đang tiến hành, tôi đề nghị nên lập nhóm ad hoc Bùi Quang Vinh – Phạm Bình Minh – Vũ Đức Đam, với toàn quyền xây dựng một phương án phản biện tổ chức đại hội Đảng theo yêu cầu tiến hành cải cách chính trị, xin ý kiến xây dựng của nhân dân, rồi đem ra Đại hội XII quyết định. Để sau Đại hội XII là mở đường cải cách chính trị do một đảng đã được đổi mới tiến hành[4].

 Cả 2 lần đề nghị này, tôi mong muốn tạo ra một bước ngoặt chặn đứng tình trạng tha hóa đang đi đến phân rã của đảng và cứu nguy đất nước, bằng cách đề nghị đảng thực hiện vai trò của đại hội: mời tất cả các phe nhóm quyền lực (còn gọi là phe nhóm lợi ích) lên ngồi trên hàng ghế chủ tịch đoàn danh dự của đại hội, song đại hội đảng giao cho nhóm kỹ trị mà tôi gửi gắm vào bộ 3 “Bùi Quang Vinh – Phạm Bình Minh – Vũ Đức Đam” tạo ra một đại hội XII xoay chuyển hẳn tình thế của đảng  và của đất nước, vận dụng nguyên tắc không hồi tố để giữ yên ấm mọi bề trong quá trình thay đổi quyết liệt này. Chỉ cần sự hòa giải với nhau của các phe nhóm lợi ích với tinh thần tổ quốc trên hết, phương án giao quyền cho nhóm ad hoc này hoàn toàn khả thi, khi đi vào thực hiện sẽ có sự hậu thuẫn mạnh mẽ và thống nhất của toàn đảng. Nguyên tắc không hồi tố được vận dụng thật lòng sẽ là một bảo đảm quan trọng để mở ra quá trình thay đổi triệt để này.

Trong thâm tâm tôi đã nghĩ tới mức: Chỉ cần trong Bộ Chính trị có một nhân vật đủ lòng yêu nước, dũng cảm đứng lên đặt vấn đề với toàn thể Bộ Chính trị và đại hội: cùng nhau hòa giải trên nguyên tắc không hồi tố, quyết đứng sang một bên, quyết cùng nhau vì tổ quốc hậu thuẫn hết lòng cho nhóm ad hoc..; nếu làm được như thế, hoàn toàn có thể có một đại hội XII đúng như đòi hỏi của đảng và của đất nước lúc này. Chỉ cần có một tiếng nói như vậy thôi, trí tuệ và lòng người sẽ thu về một mối! Giang sơn sẽ thu về một mối! Đấy chính là tiếng nói phát đi hiệu lệnh: Cả nước đứng lên tiến hành cải cách chính trị theo tinh thần đoàn kết hòa giải dân tộc, tổ quốc trên hết! Đất nước sẽ hoàn toàn đủ sức khai phá con đường mới!

Tôi đã viết cả thư riêng đến Bộ Chính trị về suy nghĩ này, giục giã sự bàn bạc trong Bộ Chính trị…

Hay là tôi quá yêu nước mình và do đó đánh giá quá cao tinh thần yêu nước, cái tâm, cũng như trí tuệ của các phe nhóm lợi ích và  các ủy viên BCT? (Hoặc cũng có thể tôi quá ngu về chính trị nên nghĩ như vậy!?)

Rõ ràng ở đây một lần nữa sau bức thư 09-08-1995 của thủ tướng Võ Văn Kiệt, tôi lại thấy: Ảo tưởng như tôi thế này, chứng tỏ tôi chẳng hiểu tí teo gì về chính trị! Nếu thế, quả thực tôi ngốc quá, nó là bẩm sinh mất rồi! Hay là lợi ích quốc gia chẳng còn ý nghĩa gì nữa đối với đảng của chế độ toàn trị hiện nay?

Tôi không nghĩ rằng tôi không lường được ở mức độ cần thiết nào đó sự nhạy cảm có thể xảy ra giữa ta và Trung Quốc, nếu đại hội XII quyết định thực hiện sự chuyển biến bước ngoặt này. Tôi cũng tin rằng nước ta đủ bản lĩnh và khôn ngoan để TQ không thể hiểu nhầm và cũng không cho phép TQ cố tình hiểu nhầm VN cải cách chính trị là để chống TQ!

Tôi đã đặt ra những kịch bản khác nhau để cân nhắc mọi bề, và có đủ lý do để tin rằng dù chuyện gì nếu xảy ra – từ bao vây và cắt đứt quan hệ kinh tế, đòi nợ, gây sức ép chính trị.., đến tập hợp đám cặn bã dựng lên chế độ bù nhìn để phản đòn, đến xâm lược vũ trang..,  vân vân… Song cuối cùng tôi vẫn đi tới được kết luận: Nước ta và nhân dân ta hoàn toàn trong tầm tay có thể giải quyết được mọi vấn đề xảy ra. Thực tiễn lịch sử đất nước đã trải qua thời kỳ vận mệnh quốc gia như trứng để đầu đẳng sau Cách mạng Tháng Tám, rồi 4 cuộc kháng chiến vừa qua, và từ những gì đang diễn ra trên thế giới hôm nay, tôi đi tới nhận định như vậy, chứ không phải từ không khí.

Thậm chí tôi đánh giá: Nếu xảy ra kịch bản TQ dùng mọi bạo lực can thiệp thô bạo vào công việc nội bộ của nước ta giữa lúc nhân dân cả nước ta quyết đứng lên tiến hành cải cách chính trị để mở ra con đường sống cho mình, TQ chẳng những sẽ thất bại như trong chiến tranh tháng 2-1979, mà còn mất luôn cả cái chính danh đang muốn tạo ra cho ngọn cờ phục hưng đế chế Trung Hoa. Và còn quan trọng hơn thế đối với chính nước ta, nếu kịch bản bạo lực này xảy ra: Con đường Thành Đô đất nước ta đã lâm vào, sẽ bị chính bàn tay TQ xóa sổ, quyền lực mềm TQ đã cài cắm sâu vào nước ta sẽ không còn đất sống, nhân dân ta từ đây sẽ trưởng thành thêm một bước quyết định, để từ đây có thể sống trong hòa bình, được tôn trọng và sẽ có thể thực hiện được hữu nghị thật, hợp tác thật với TQ như ngàn đời lịch sử nay nhân dân ta vẫn hằng mong muốn.

Trên hết cả, tôi đã tính toán kỹ, nếu đảng và nhân dân một lòng, hoàn toàn cải cách chính trị sẽ có thể diễn ra trong hòa bình, không thế lực bên ngoài nào muốn hay dám can thiệp! Hôm nay, một sự nghiệp cải cách chính trị giải phóng sức sống của một dân tộc như ở nước ta sẽ được cả thế giới tiến bộ hoan nhênh và hậu thuẫn! Cục diện trật tự quốc tế mới và tình hình khu vực chúng ta hôm nay đang cần lắm tinh thần tự quyết đứng lên của mỗi dân tộc vì lợi ích của chính quốc gia mình để loại bỏ mọi thao túng của mọi siêu quyền lực, bởi vì hòa bình hợp tác và phát triển phải dấn thân mà dành lấy, chứ không thể ngửa tay đi xin được! – đây chính là một trong những đặc điểm quan trọng của xu thế thời đại hôm nay!

Câu hỏi duy nhất tôi chưa có lời giải là: giới lãnh đạo của ĐCSVN hôm nay lựa chọn gì tại đại hội XII này?

Có thể nói, tôi nhìn nhận được ở mức độ nhất định bàn cờ của đất nước. Nhưng tôi lại không nhìn được thấu đáo nội tình của ĐCSVN như tại quá trình đã dẫn tới đại hội XII vừa qua. Lại vẫn cái cú vấp cũ đã xảy ra với bức thư ngày 09-08-1995! Quả thực trước sau là tôi vẫn là một chàng ngốc, không bao giờ có năng khiếu làm chính trị.

Tôi thất bại như vậy đối với đề nghị về đại hội XII, cái chính là vì tôi đã quá lý tưởng sức chiến đấu còn lại trong đảng và đội ngũ lãnh đạo!

Tôi vô cùng đau lòng vì đã thất bại, song không thể buông xuôi được.

Xin cho phép tôi nói tại đây một lần nữa và mãi mãi:

-       Quá trình vận động 43 năm đầu tiên trong đất nước độc lập thống nhất của ĐCSVN hôm nay đã được thực tế khách quan chứng minh: (a) đảng đã trở thành lực lượng thống trị quan liêu ăn bám ngày càng đối kháng với lợi ích và đòi hỏi phát triển của quốc gia, (b) dựng lên chế độ toàn trị để cai trị đất nước nhằm bảo vệ quyền lực và lợi ích của Đảng trước hết (Điều 4), và (c) đất nước phải chịu đựng tệ nạn tham nhũng làm kiệt quệ và kéo lùi, đồng thời bị cướp mất những cơ hội chiến lược!

-       Thực tế cho thấy: 43 năm độc lập thống nhất, nhưng thành tựu đất nước đạt được quá khiêm tốn so với cái giá phải trả rất đắt. So sánh với chung quanh, đất nước vẫn tiếp tục tụt hậu và lạc hậu. Trong khi đó đất nước hầu như không được chuẩn bị thỏa đáng cho đối phó với những thách thức trong cục diện trật tự quốc tế mới!

-       Vì thế, chừng nào ĐCSVN hôm nay không chịu vứt bỏ giáo lý sai lầm để biện minh cho quyền lực đã tha hóa ruỗng nát tổ chức đảng của mình, chừng nào Đảng không chấm dứt chế độ toàn trị đang áp đặt lên đất nước, chừng nào Đảng từ chối cải cách chính trị để đổi đời chính mình và mở ra con đường sống của đất nước, chừng đó Đảng đã tự đánh mất mọi chính danh của Đảng như đã ghi trong Cương lĩnh và điều lệ của Đảng.

-       Đứng trên Hiến pháp, Đảng đã và đang trở thành kẻ tham nhũng lớn nhất nước: Tham nhũng quyền lãnh đạo, và bám giữ quyền cai trị đất nước!  Qua đó đảng hôm nay đang làm đất nước suy yếu nguy hiểm cả về đối nội và đối ngoại. Tha hóa đang làm cho đảng ngày một lao sâu thêm vào con đường đối kháng lợi ích quốc gia, với cột mốc chót phía trước là sẽ tự sụp đổ hay bị lật đổ.

Xin những bộ não ưu tú của Đảng còn nặng lòng với dân với nước hãy thử đánh giá xem:

-       Những điều a, b, c nêu trên có phải là bản tổng kết 43 năm qua của ĐCSVN hôm nay  hay không?

-       Và đúng hay sai là đảng hôm nay đang ngày càng đánh mất tính chính danh của mình – nhiệm kỳ sau nặng hơn nhiệm kỳ trước!?

-       Đúng hay sai, càng trì hoãn cải cách chính trị, đảng hôm nay càng tha hóa trầm trọng thêm và càng trấn áp dân, đất nước bị chồng chất thêm những khó khăn mới, khả năng cải cách chính trị càng bị đẩy xa vời, để ngày càng nhường chỗ cho nguy cơ bạo loạn, sụp đổ, ngày càng bất lực trước sự can thiệp của quyền lực rắn và quyền lực mềm Trung Quốc!?

Hết lòng với Đảng và đất nước, tôi phải thẳng thắn nói lên sự thật như vậy!

Chỉ còn lại 2 khả năng: Hoặc là tôi đúng, hoặc là tôi sai!

Anh Nhị Lê trong một số bài viết gần đây đã phải đụng tới vấn đề tham nhũng quyền lực. Song tôi không biết, anh Nhị Lê có cùng một cách nhìn như tôi về tham nhũng quyền lực hay không!? Tôi không tin như vậy, hay là anh Nhị Lê mới chỉ dám khe khẽ chạm vào sự thật?

Cũng vì phải nói ra sự thật như tôi đã khẳng định theo nhận thức của mình, nhiều người đã cho tôi là huyễn hoặc, là hoang tưởng; thậm chí còn cho tôi là tự diễn biến, là chống Đảng…

Mong cả nước bàn luận! Vì Tổ quốc là của tất cả chúng ta, thuộc về trách nhiệm của mỗi chúng ta!

…Tôi viết đến đây, được tin người bạn quý mến của chúng tôi, một trí thức lớn của đất nước với nhân cách trung thực và lòng yêu nước sâu nặng vừa mới qua đời (13-05-2018): Anh Phan Đình Diệu.

Những nội dung tôi trình bầy trên đây, thật ra từ rất sớm anh Phan Đình Diệu đã nói trực tiếp với những người lãnh đạo Đảng và Nhà nước, trong đó có Thủ tướng Phạm Văn Đồng, anh Trần Xuân Bách, anh Phạm Thế Duyệt… những điều tương tự:

-       đem lý thuyết của thế kỷ 19 áp dụng vào thế kỷ 20, hệ thống XHCN của Liên Xô trước sau sẽ sụp đổ (anh Phan Đình Diệu nói với Thủ tướng Phạm Văn Đồng đầu những năm 1960s);

-       cần bỏ Điều 4, Việt Nam phải chọn cho mình con đường phát triển của dân chủ và nhà nước pháp quyền.., khi bàn về xây dựng Hiến pháp 1992...

-       vân vân.          

Trước Đại hội XII, trong các bài viết của mình, tôi đã đề nghị phương án cải cách chính trị, đoàn kết dân tộc, không hồi tố, (a)để bảo toàn ở mức tối đa mọi tiềm lực và sức mạnh quốc gia, (b)để có thể tập trung ý chí và mọi nguồn lực cho tiến hành thắng lợi cải cách chính trị, (c)để sớm hình thành trong thời gian ngắn nhất một thể chế quốc gia của kinh tế thị trường, nhà nước pháp quyền, xã hội dân sự, (d)mở ra một thời kỳ phát triển mới của đất nước, kịp đáp ứng những đòi hỏi và thách thức mới rất quyết liệt.

Trong những bài này tôi cũng đã trình bầy rõ: Khép lại quá khứ mọi chuyện của quá khứ. Song trong thể chế chính trị mới của quốc gia, nhất cử nhất động đều phải trong khung khổ của Hiến pháp và luật pháp, phải thực hiên công khai minh bạch và trách nhiệm giải trình, quyền lợi gắn  với nghĩa vụ.

Có 2 vấn đề cực kỳ phức tạp: (a) nạn tham nhũng đã xẩy ra trong quá khứ, và (b) tội lỗi đã xảy ra, số cán bộ yếu kém ăn lương từ tiền thuế của dân.

 

Về vấn nạn tham nhũng đã xảy ra (vấn đề a):

Tôi không lựa chọn con đường “đã cướp của dân 1 đồng, thì phải trả lại đủ cho dân 1 đồng!” nghe rất đạo lý, nhưng không khả thi, tổng thể trong thực tiễn sẽ lợi bất cập hại và gây rối loạn mới.

Nguyên tắc không hồi tố sẵn sàng công nhận quyền sở hữu đối với của tham đã ăn cắp/ăn cướp được trong quá khứ, nhưng trong thể chế mới của tham phải thực hiện công khai minh bạch, quyền sở hữu phải gắn liền với nghĩa vụ và nhiệm vụ: Phải làm đầy đủ mọi nghĩa vụ thuế (sở hữu, kinh doanh, sử dụng, môi trường, v… v…), các nhiệm vụ sở hữu phải làm với quốc gia theo pháp định, v… v…; riêng đối với đất đai sẽ phải có những quy định riêng – tuy không hình sự hóa, nhưng phải đúng với luật của quốc gia về sử dụng đất đai, các loại thuế và chước bạ liên quan đến đất đai và bất động sản, tìm những giải pháp đồng thuận liên quan đến đền bù đất đai, v… v…

Nói cách khác: Nguyên tắc không hồi tố như vậy phải được thiết kế phục vụ cho thực hiện việc thu hồi lại của tham cho kinh tế quốc gia ở mức cao nhất có thể - bằng cách từ đây trở đi của tham bắt buộc phải hoạt động như một đồng vốn có quyền sơ hữu hợp pháp đúng với hiến pháp và luật pháp, làm lợi cho cá nhân và cho quốc gia. Sự nhân nhượng chính trị mang tính quyết định này trước hết nhằm (1)tạo mọi điều kiện để cải cách chính trị được tiến hành trong hòa bình và ổn định, (2)tránh được tẩu tán hay thất thoát của cải của quốc gia và toàn xã hội, (3)giảm thiểu mọi thiệt hại chung của nền kinh tế quốc dân, (4)ngăn ngừa mọi rối loạn hoặc thậm chí hỗn loạn nguy hại cho quá trình cải cách và sự phát triển của đất nước.

 

Về những tội ác trong quá khứ và những cán bộ yếu kém đang ăn lương từ thuế dân (vấn đề b):

Như trên đã nói, nguyên tắc không hồi tố tôi đề ra chủ yếu mang tinh thần không hình sự hóa quá khứ những tội ác (crimes) trong tham nhũng kinh tế. Còn mọi tội ác hình sự (criminal crimes) nhất thiết phải xử lý theo Hiến pháp và luật pháp.

               Về những cán bộ yếu kém đang ăn lương từ thuế của dân, trong những bài này tôi đã đề nghị giải pháp trên nguyên tắc: yếu kém thì phải đứng sang một bên, nhưng tạo điều kiện cho họ phấn đấu trở thành người có năng lực, hoặc chuyển ngành nghề thích hợp, hoặc về hưu hay ra khỏi biên chế với sự giúp đỡ nhất định của ngân sách, chú ý phát triển các ngành dịch vụ và dịch vụ công, hoặc một số ngành nghề kinh tế mới đất nước đang cần, để thu hút số lao động này. Nói hết nhẽ: Cải cách chính trị không được phép bỏ rơi bất kỳ một ai mặc cho số phận của họ!

            Nội dung cải cách trong hòa bình và vận dụng nguyên tắc không hồi tố như trình bày trên là kết quả tôi đánh giá những thất bại của chế độ ta trong xử lý những vấn đề hậu chiến sau Hiệp nghị Geneva 1954 và sau 30-04-1975, là những kinh nghiệm tốt hoặc xấu, thành hoặc bại tôi thấy được qua sử liệu của một số quốc gia khác nhau thời chuyển đoạn trong những hoàn cảnh khác nhau, như Tây Đức và Pháp sau chiến tranh thế giới II xử lý các công ty và tập đoàn đã từng trực tiếp phục vụ chiến tranh của Đức quốc xã theo cách tạo điều kiện cho họ tham gia vào tiến trình chung phục hồi nền kinh tế quốc dân và cùng thụ hưởng những lợi ích của kế hoạch Marshall, xử lý nhân đạo thống chế Pétain đã hợp tác với Đức quốc xã.., tại Singapore thời Lý Quang Diệu mới lên cầm quyền, tại Hàn Quốc thời Park Chung-hi xử lý các công ty đã từng hợp tác với Nhật, cách giải quyết vấn đề ruộng đất ở Đài Loan, Hàn Quốc, Nhật… Trong cuộc  chiến tranh Bắc – Nam ở Mỹ khi kết thúc có chi tiết không được tịch thu lừa ngựa bên thua trận mà phải trả lại cho chủ sở hữu cũ để mau chóng phục hồi kinh tế. V… v…

Những ví dụ tại các nước tôi đề cập tới trên đây là những vấn đề hoàn toàn khác nhau trong những hoàn cảnh khác nhau. Nhưng chúng đều có một câu hỏi chung là: Cách xử lý như thế nào là lợi nhất cho quốc gia và êm thấm mọi bề để sớm chuyển sang giai đoạn phát triển mới? Người trả lời được, người không trả lời được hoặc trả lời sai… Song bản thân câu hỏi này gợi mở ra nhiều điều.

            Có một chuyện nhỏ lý thú: Khi tôi làm đại sứ ở Thái Lan, tìm hiểu ngành đá quý của quốc gia này – một nghề kinh doanh rất tai quái, một lão làng người Thái gốc Hoa trong nghề kinh doanh ruby (hồng ngọc) nói với tôi: Bí quyết bắt chuột của cả đời ông ta là dụ chuột đến chỗ dễ bắt nó nhất, đừng bao giờ thò tay thẳng vào hang bắt chuột, dù là mười mươi biết nó nằm trong đó! Ông ta cho tôi bí mật lớn nhất của ông ta trong nghề kinh doanh ruby, mà ông ta chẳng lộ tý teo gì về bí mật của ông ấy cả! Tôi thấy ông lão này khôn quá, chí lý quá. Trong xử lý những vấn đề kinh tế cũng như nhiều vấn đề phức tạp khác trong cuộc sống, tôi đồng tình: Đúng là không nên đơn giản muốn bắt chuột thì cứ thọc thẳng tay vào hang bắt chuột!

Nguyên tắc không hồi tố tôi nêu ra với Đại hội XII phần nào chịu ảnh hưởng của ông già tinh quái này.

Nguyên tắc không hồi tố  tôi đề nghị, chủ yếu tôi dựa vào triết lý ngàn xưa của ông cha ta lọt sàng xuống nia mà tôi tiếp thu được trong sách giáo khoa môn luân lý thời tôi học “enfantin”: Vua nước Sở mất cung, người nước Sở dùng!..

Toàn bộ những gì tôi quan sát được trong thế giới thực, đã góp phần xây dựng cách triết lý này thành kiến nghị của tôi! Tôi đúng? Tôi sai?.. Nhưng kiến nghị của tôi về không hồi tố ra đời như thế, và là như thế!

            Kiến nghị cải cách chính trị và nguyên tắc không hồi tố tôi đề nghị không được Đại hội XII chấp nhận. Hiện nay toàn đảng đang tập trung vào đại vấn đề “lò và củi”.

Tôi xin đề ngỏ sự đánh giá của dư luận về kiến nghị của tôi, cũng như về thực tiễn đang diễn ra của vấn đề “lò và củi”.

[Phải chăng: Vấn đề “lò và củi hiện nay đang có nguy cơ hoặc sẽ đi vào ngõ cụt, phải tìm cách thỏa hiệp, đất nước sẽ ngổn ngang tiếp trăm ngàn dở dang nguy hiểm – chẳng khác gì một cơ thể đang bị phẫu thuật  mở rồi để đấy cho mọi khả năng nhiễm trùng và biến chứng; hoặc sẽ rơi vào tình thế cực đoan ác tính, với những kịch bản khác nhau khó lường, chẳng có gì yên lành hứa hẹn cho đất nước? Cả 2 triển vọng này đều khiến tôi vô cùng lo lắng. Nói nghiêm khắc: Ý thức trách nhiệm không bao giờ cho phép đối xử với quốc gia như vậy, người cầm vận mệnh đất nước trong tay hình như không hiểu điều này?]

            Tôi có nỗi băn khoăn rất lớn: Đại sự “lò củi” đang làm nức lòng không ít người, thậm chí đang được những người nhất định quạt thêm gió vào , chỉ chỏ thêm những củi mới, hô hào và kích động đốt củi mới… .., chuyện gì sẽ đến với đất nước sau “lò củi”!?

-       Một cuộc cải cách chính trị chăng?

Tôi rất mong như thế, vì đây là lối thoát của đất nước ra khỏi mọi yếu kém, đổi đời chính mình để đi vào một giai đoạn phát triển mới.

Bây giờ quyền lực tập trung trong tay chỉ mỗi một nhóm, nên hoàn toàn có khả năng thực hiện. Thậm chí tôi nghĩ rằng lãnh đạo đang hiện nay có trách nhiệm ràng buộc phải thực hiện một cuộc cải cách chính trị như thế!

Nhưng nhìn vào Quy định 102 và 105, vào bản mẫu kiểm điểm hàng năm của đảng viên -  đấy là những văn bản pháp lệnh chưa ráo mực của Đảng, và nhất là nhìn vào chính sách và quy hoạch cán bộ chiến lược như được Hội nghị TƯ 7 vừa mới thông qua, rồi đến dự luật an ninh mạng.., tôi chỉ thấy đảng đang được lên dây cót theo đường mòn, chế độ chính trị đang siết chặt nữa…

Một khi dây cót đã nhả ra hết tầm, hầu như chắc chắn đảng lại trở về điểm xuất phát, toàn bộ hệ thống của đảng còn nguyên vẹn, độc lập dân tộc gắn với CNXH vẫn còn nguyên vẹn, trung thành với CNML vẫn còn nguyên vẹn… Như thế khả năng có một cuộc cải cách chính trị đã bị chặn đứng ngay từ các văn bản này và những sự việc đang diễn ra?! Chưa nói đến đang ngày càng nhiều việc rập khuôn theo Trung Quốc, kể cả trao đổi ý kiến và hợp tác đào tạo cán bộ cấp chiến lược!.. … Như thế có nghĩa chế độ toàn trị sẽ còn nguyên vẹn? Không đâu, như thế nó đang đối kháng quyết liệt hơn nữa đối với đất nước!

Hay là nỗi băn khoăn của tôi là bệnh hoạn?

Tôi không nghĩ vậy.

 

Xin nêu ra một ví dụ nghiêm trọng làm dẫn chứng:

Ngay trong khi tôi viết những dòng này, báo chí cả nước đang sôi nổi bàn luận về 3 dặc khu kinh tế Vân Đồn, Bắc Văn Phong và Phú Quốc, sắp tới Quốc hội sẽ thông qua Luật về các đặc khu kinh tế…

Kể từ khi công bố, tuy mới chỉ có mấy tuần thôi, song những phản ứng trong nhân dân về quyết định thành lập 3 ĐKKT và dự luật hình như còn “nóng” hơn cả khi xảy ra vấn đề bauxite Tây Nguyên và vấn đề Formosa… Một cơn sóng bất bình trong nhân dân phản đối – với mọi hình thức quyết liệt khác nhau: Từ những tuyên bố thẳng thừng vạch ra quyết định này là bán nước cho Trung quốc, cho đến những lời nguyền rủa.., những lời quỳ xuống van xin đảng, quốc hội, chính phủ đừng bán nước, những hoạt động khác!.. 

Tôi vô cùng xót xa, trong lòng không sao hiểu nổi tại sao giữa lúc đất nước đang ngổn ngang trăm bề thế này, lãnh đạo đảng và nhà nước không có việc nào đáng làm hơn hay sao, mà lại còn đẻ thêm ra chuyện nhạy cảm như vậy!?

 Tôi cố trấn tĩnh lại, xin nêu ra nhận xét có đầu có đuôi như sau đây.

Trước hết xin điểm lại tình hình các khu công nghiệp (KCN) hiện có.

Thông tin trên báo chí cho biết, cả nước hiện nay đã có 324 KCN và 16 khu kinh tế (KKT). Trong đó, khoảng 200 KCN đã hoàn thành và đi vào hoạt động từ hàng chục năm nay; nhìn chung mới chỉ lấp đầy được khoảng 50-60% diện tích của mỗi khu. Đến nay vẫn còn 124 KCN hàng chục năm nay chưa xong giải phóng mặt bằng, đất đai vẫn treo lại chờ, gây lãng phí lớn. Những khu công nghiệp có sản phẩm công nghệ cao gần như chỉ đếm được trên đầu ngón tay, dịch vụ liên kết và nâng đỡ sự phát triển của công nghiệp trong cả nước rất yếu kém…

Ngoài việc bán tại chỗ lao động rẻ, cho thuê đất đai, bán được một số dịch vụ, tài nguyên, điện nước, thu thuế.., nhìn chung các KCN không làm được nhiệm vụ số 1 của nó là góp phần hình thành nên một nền công nghiệp quốc gia, càng không làm được bao nhiêu góp phần vào hiện đại hóa đất nước, lợi thế cạnh tranh về lao động giá rẻ đang mất dần, gây ô nhiễm môi trường và hao tổn tài nguyên ngày càng nặng nề.

Dù là với một mạng lưới các KCN dày đặc như hiện nay, 30 năm tiến hành công nghiệp hóa rồi mà cả nước chưa có một nền công nghiệp với đúng nghĩa, cho đến hôm nay công nghiệp gia công vẫn là chủ yếu, cơ cấu công nghiệp rời rạc, kết cấu hạ tầng có quá nhiều bất cập… Nguyên nhân chủ yếu là sự bất cập của thể chế kinh tế-chính trị, bộ máy nhà nước, luật pháp, chính sách và sự thực thi luật pháp / chính sách… Nạn quan liêu và tham nhũng đã bóp nghẹt sức sống của các KCN, mặc dù công sức và tiền của bỏ ra rất lớn, tài nguyên đã tận dụng và đem bán đến  mức cạn kiệt. Hệ quả: các KCN không thể trở thành động lực để phát triển nội lực của toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Cho nên đến hôm nay, sự phát triển của nền kinh tế quốc dân chủ yếu vẫn là nền kinh tế của công nghiệp gia công và phải dựa vào FDI là chính.

  Vấn đề sống còn đối với kinh tế đất nước hiện nay là làm gì (a)nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và (b)đổi mới công nghệ trong toàn bộ nền công nghiệp của đất nước?

Đỏi hỏi cấp bách nhất của nền kinh tế quốc dân hiện nay là giải phóng mọi ách tắc, và ưu tiên huy động mọi nguồn lực để giải quyết 2 vấn đề nêu trên (a, b). Đấy là cách mang lại sức sống mới cho các doanh nghiệp trong cả nước – nhất là trong các khu công nghiệp hiện có, và đồng thời bám sát những đòi hỏi mới của sản xuất và kinh doanh thời CMCN 4.0.

Hơn bao giờ hết, doanh nhân và doanh nghiệp cả nước cần chủ động cùng nhau bàn bạc và lựa chọn cho quốc gia tập trung phát triển một vài ngành kinh tế có công nghệ cao của cả nước (ví dụ công nghiệp thực phẩm, nông nghiệp công nghệ cao, các công nghiệp dịch vụ có hàm lượng công nghệ cao…) mà nước ta có triển vọng phát huy để tạo thế mạnh riêng của đất nước. Cả nước và nhà nước cần hậu thuẫn và hỗ trợ những nỗ lực này. Huy động trí thức và trí tuệ cả nước cho sự lựa chọn này…

Tất cả những vấn đề như vậy hầu như chưa được đặt ra, song lại là những việc thiết thực, bức bách và trong tầm tay, cần phải làm ngay.

 Chắc chắn sẽ còn nhiều vấn đề khác nữa có liên quan, nhất là gỡ bỏ những rào cản hay ách tắc từ thể chế chính trị và bộ máy vận hành quốc gia… Tất cả cần được bàn luận và cân nhắc thấu đáo.

Ai lo, và chủ trương chính sách nào giải quyết tất cả những chuyện rất quan trọng và nóng bỏng này?

 

Trở lại bàn về dự luật và dự án 3 đặc khu kinh tế (ĐKKT).

Xin miễn nhắc lại những ý kiến quan ngại rất xác đáng đã được dư luận nhân dân cả nước và một số đại biểu quốc hội nêu ra, dưới đây chỉ xin bổ xung thêm những điều cần lưu ý.

1.     Kinh tế vỹ mô của đất nước hiện nay đang cùng một lúc có nhiều vấn đề rất bức xúc phải xử lý, đó là: (a)phải đẩy nhanh đổi mới cơ cấu kinh tế, (b)phát triển kết cấu hạ tầng, (c)phát triển nguồn nhân lực, (d)đổi mới công nghệ quá lạc hậu hiện nay so với những đòi hỏi mới của CMCN 4.0, (e)nâng cao sự phát triển năng động của những KCN hiện có, (f)vấn đề nợ đến hạn, ngân sách liên tiếp thâm hụt sâu, hàng trăm nghìn sinh viên tốt nghiệp chưa có việc làm, nhiều sản phẩm nông nghiệp truyền thống cần thay đổi để có thị trường tiêu thụ, nhiều sản phẩm gia công đang mất lợi thế cạnh tranh, v… v… Trong tình hình như vậy,  huy động một nguồn vốn rất lớn (có con số nói là khoảng 70 tỷ USD!) cho 3 ĐKKT là một quyết định chiến lược không hợp lý: bỏ việc lớn quan trọng với toàn bộ nền kinh tế, chọn việc ăn ngay dễ làm! 

2.     Mô hình ĐKKT đã lỗi thời trên thế giới kể từ thập kỷ 1990s, không thể đáp ứng những phương thức mới về sản xuất, kinh doanh, liên kết và dịch vụ trong khuôn khổ những hiệp định thương mại tự do (FTAs) Việt Nam đã ký kết trong những năm vừa qua và thời đại CMCN 4.0.

Hơn nữa, nếu có sự quản lý đất nước thông thoáng và có trách nhiệm giải trình, thì ngay trong từng KCN đã hoàn thành và hiện vẫn còn đến gần một nửa diện tích chưa sử dụng, hoàn toàn  có thể huy động đầu tư trong nước hoặc FDI đưa vào mỗi KCN hay nhiều KCN đang tồn tại này những công trình công nghiệp hiện đại của CMCN 4.0, vừa sớm đem lại hiệu quả kinh tế cao và có sức lan toả lớn cho kinh tế vĩ mô, vừa không phải đặt vấn đề xây dựng mới các ĐKKT đang gây ra nhiều tranh cãi rất nhạy cảm, nhất là nguồn vốn đất đai ngày càng căng thẳng. Luật pháp hiện hành hoàn toàn đủ để tạo ra sự phát triển năng động mới này, bao gồm cả sự hấp dẫn đối với FDI; chỉ còn thiếu thể chế chính trị có chất lượng của đất nước để thực hiện có hiệu quả. Chính vì thiếu một thể chế chính trị như vậy, 30 năm CNH-HĐH vừa qua công sức bỏ ra rất lớn, song mọi chuyện cứ như là cái thùng không đáy!

3.     Cả 3 dự án ĐKKT không đáp ứng được những yêu cầu làm động lực và tạo sự lan tỏa cho sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế quốc gia trên những phương diện: phát triển nguồn nhân lực, đẩy mạnh vận dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ mới, nâng cao năng lực quản trị nền kinh tế quốc dân – nhất là trên phương diện thực hiện sự công khai minh bạch và trách nhiệm giải trình, sớm tìm ra sản phẩm riêng và lối đi riêng để nâng cao năng lực cạnh tranh của nền toàn bộ nền kinh tế quốc dân trong tình hình mới, v… v…

4.     Xin nhấn mạnh, bài toán kinh tế vỹ mô khó nhất của nước ta từ hàng chục năm nay không giải quyết được là: Năng lực sản xuất kinh doanh có trong tay của toàn bộ nền kinh tế quốc dân rất lớn, nhưng toàn bộ nền kinh tế nói chung hoạt động dưới tiềm năng nghiêm trọng, lãng phí và thất thoát rất lớn, tham nhũng vô cùng nặng nề, chi phí hậu cần và chi phí cơ hội cao gấp 2 – 3 lần so với nhiều nước, có quá nhiều ách tắc và bất cập trong lĩnh vực kết cấu hạ tầng… Trong bài toán này, yếu kém nghiêm trọng nhất là không phát huy được vốn quý nhất của quốc gia là con người và nguồn nhân lực; trong khi đó thể chế chính trị, bộ máy nhà nước và toàn bộ khâu quản lý hành chính nói chung kìm hãm nội lực, do đó tạo ra trở lực lớn nhất của sự phát triển đất nước.

    Bài toán này đặt ra nhiều câu hỏi quan trọng để cân nhắc:

(a)             Nên tập trung mọi nguồn lực quốc gia, đồng thời từng bước thực hiện ngay những cải cách có thể để giải quyết bài toán này? – tạm gọi đây là giải pháp “a”.

(b)            Hay là giải quyết bài toán này bằng xúc tiến 3 dự án ĐKKT? – tạm gọi đây là giải pháp “b” - Tôi xin nói ngay ý kiến của tôi: giải pháp “b” không thể giải được bài toán này, thậm chí sẽ gây thêm nhiều mối nguy lớn.

(c)             Trong trường hợp muốn thực hiện cả hai giải pháp “a” và “b”, rất nên đặt lên bàn cân xem xét có khả thi không? Hoặc giữa giải pháp “a” và giải pháp “b” nên ưu tiên thực hiện giải pháp nào trước? – Ý kiến tôi: Lùi một ngày giải pháp “a”, đất nước sẽ “chết” thêm một ngày, nhưng lùi giải pháp “b” đất nước và lãnh đạo sẽ có thêm thời giờ để cân nhắc.

(d)            Quá trình 30 năm tiến hành công nghiệp hóa vừa qua cho đất nước ta một bài học khắc nghiệt: Nguyên nhân hàng đầu dẫn đến thất bại không hoàn thành sự nghiệp CNH-HĐH đất nước vào năm 2020 như đã ghi trong các nghị quyết các đại hội đảng là không đồng thời dựng lên được một thể chế chính trị và bộ máy nhà nước của quốc gia CNH-HĐH để vận hành đất nước theo hướng giải phóng và phát huy nội lực. 43 năm nay đất nước chỉ có một thể chế chính trị và bộ máy nhà nước tiêu hao mọi nội lực!  Chính nguyên nhân hàng đầu này giải thích vì sao 30 năm CNH-HĐH nước ta không thể tự vươn lên có một nền công nghiệp của chính mình, đến hôm nay vẫn phải dựa vào FDI là chính. Nguyên nhân hàng đầu này cũng là nguyên nhân gốc của tệ nạn quan liêu tham nhũng đã diễn ra trầm trọng và làm thất bại nhiều chủ trương, chính sách kinh tế đúng đắn. Trong sự tồn tại của nguyên nhân gốc này, có dám nói chắc là sẽ quản lý được 3 ĐKKT với những siêu ưu đãi dành cho nó không? Và ai cũng biết những siêu ưu đãi này có thể thách thức quốc gia rất nghiêm trọng trên nhiều phương diện vô cùng quan trọng.

(e)             Vân vân…  Vân vân…

5.     Đất đai hiện nay là một trong những vấn đề nhạy cảm và nóng nhất của đất nước. Chưa nói đến những sai lầm và bất cập về đường lối, chính sách, chủ trương hiện hành về vấn đề đất đai và quan điểm ghi trong Hiến pháp “đất đai thuộc quyền sở hữu toàn dân do Nhà nước thay mặt nhân dân quản lý”, nước ta đất hẹp người đông, mật độ dân số cao nhất châu Á, sự “quản lý” rối loạn của nhà nước làm cho vấn đề đất đai căng thẳng thêm cực độ. Tình hình cụ thể hiện nay ở Vân Đồn, Vân Phong và Phú Quốc là toàn bộ đất đai cả 3 khu này đã có chủ sở hữu các loại khác nhau, không còn lấy 1 m2 bỏ trống – với nghĩa đã có những nguồn tiền sạch/bẩn lẫn lộn đã đầu cơ mua hết rồi!.. Triển vọng dễ thấy nhất ngay từ giai đoạn “dự án” của 3 ĐKKT là: Sẽ hứa hẹn có 3 nhượng địa mới. Có nên không? Xin Bộ Chính trị cân nhắc kỹ trong tình hình hiện nay.  

6.     Báo chí đưa tin Chủ tịch Quốc hội Nguyễn thị Kim Ngân nói dự án 3 ĐKKT là quyết định của Bộ Chính trị, Quốc hội cần bàn để thực hiện. Tôi không biết tin này chính xác như thế nào. Song theo tôi, nếu là Bộ Chính trị dù đã quyết rồi mà ý kiến cả nước và ngay trong Quốc hội còn xôn xao không đồng tình như vậy, Bộ Chính trị vẫn cần phải xem lại, vì các lẽ:

(a)             Giả thử chủ trương này đúng, song trong tình hình đất nước và khu vực rất nhạy cảm như hiện nay vẫn cần phải có sự đồng thuận của toàn dân. Lúc này đẻ số thêm những vấn đề căng thẳng trong nội trị sẽ không khác tự sát bao nhiêu, vì cái xảy nảy cái ung.

(b)            Bộ Chính trị có quyền lực lớn nhất nước, song không thể nói Bộ Chính trị khôn hơn cả nước được, lắng nghe dân và tham khảo dân Bộ Chính trị chỉ có được, chứ không có mất! Mặt khác, có thể Bộ Chính trị quyết định chủ trương lớn, nhưng không giám sát được việc thiết kế các nội dung cụ thể trong dự luật và các phụ lục với quá nhiều sơ hở - không loại trừ khả năng “lợi ích nhóm” chui vào, có thể gây nguy hại lớn cho đất nước! Vân vân và v… v... Chưa nói đến Bộ Chính trị không phải là vạn năng, cái gì cũng quyết đúng được, làm đúng được. Trong thực tế Bộ Chính trị đã nhiều lần mắc những sai lầm nghiêm trọng. Dù chỉ là công dân, chí ít tôi đã 3 lần được biết và cũng là nhân chứng Bộ Chính trị mắc sai lầm nghiêm trọng: Lần thứ nhất, đi hội nghị Thành Đô là quyết định của đa số trong tập thể BCT, Bộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch phản đối và bị loại. Lần thứ hai, Bộ Chính trị đã bác bỏ những đề nghị chiến lược quyết định vận mệnh đất nước do Thủ tướng Võ Văn Kiệt nêu ra trong bức thư ngày 08-09-1995. Lần thứ ba là quyết định sai lầm của Bộ Chính trị về khai thác bauxite Tây Nguyên. Vân vân…

7.     Xin đặc biệt lưu ý, trong tình hình hệ thống chính trị đất nước có quá nhiều yếu kém và tình hình khu vực rất phức tạp hiện nay, những ý kiến lo lắng trong dân – trong đó có một số vị tướng đã từng chỉ huy quân ngũ – về những hệ quả khôn lường trên phương diên an ninh & quốc phòng mà 3 ĐKKT và dự luật dành cho nó có thể gây ra là xác đáng, không thể bỏ ngoài tai. Chắc chắn BCT có đủ thông tin để đọc được những gì phải đọc trên bản đồ địa kinh tế và địa chính trị của nước ta và của khu vực, lại trong cục diện trật tự mới của bàn cờ thế giới rất phức tạp hôm nay!.. Trong tình huống nhất định, có thể nói đã sẵn sàng một kịch bản: hung khí tổng hợp đủ các loại – hữu hình hoặc vô hình, của quyền lực rắn và quyền lực mềm – của kẻ địch đã  dí sát sườn đất nước ta. Không thể nhắm mắt để không cần thấy gì!

8.     Nội dung 3 dự án ĐKKT và dự luật cùng các phụ lục kèm theo, xem cho kỹ sẽ thấy: Đấy là các sản phẩm ra đời từ quá trình “sao chép – cắt – dán” (copy – cut – and paste) từ những thứ đã thành văn và ra đời trong thập kỷ 1980s hoặc trước nữa tại một số quốc gia và lãnh thổ... Song những sản phẩm này không có khả năng lột tả những bối cảnh cụ thể của các quốc gia và lãnh thổ thời ấy khi những ĐKKT của họ ra đời – và đương nhiên bối cảnh của những nơi này lúc ấy hoàn toàn khác với bối cảnh của nước ta hôm nay. Cái mới và cái sáng tạo duy nhất sản phẩm  “sao chép – cắt – dán” này có được so với nguyên bản là làm cho các ưu đãi ưu tiên nặng ký hơn so với nguyên bản, song lại không thể biện minh được, và vô cùng lạc hậu, rất bất cập so với hiện tại. Vô cùng đáng lo hơn nữa là những ưu tiên ưu đãi nặng ký này sẽ được thực hiện trong bối cảnh quyền lực rắn và quyền lực mềm TQ hôm nay đã can thiệp quá sâu vào đời sống mọi mặt của đất nước ở phạm vi cả nước.

Xin lưu ý cho: Trong quá trình toàn cầu hóa kinh tế của thời đại CMCN 4.0, vòng đời của một sản phẩm cùng loại ngày càng ngắn, ngày càng nhiều sản phẩm bị thay thế hẳn, ngày càng nhiều sản phẩm hình thành từ quá trình liên kết mạng ở phạm vi quốc gia, khu vực, hoặc toàn cầu, đồng thời phương thức sản xuất kinh doanh hoàn toàn thay đổi.., tất cả đều vượt ra ngoài phạm vi một KCN hay một ĐKKT..; điều kiện tiên quyết của thành công hôm nay cho một quốc gia không phải là “khu” này “khu nọ”, mà là (1)con người, (2)khả năng vận dụng công nghệ thời CMCN 4.0., (3)khả năng tạo ra và cung ứng những dịch vụ thích ứng mà phương thức mới đòi hỏi, (4)thể chế chính trị và bộ máy vận hành quốc gia giải phóng được nội lực, mở đường cho mọi bước phát triển mới! Vì những lẽ cụ thể này, dự án 3 ĐKKT và dự luật đi kèm nhất thiết cần phải gác lại để xem xét.

 

Tôi không rõ những tác giả chắp bút dự luật và dự án về 3 ĐKKT đang làm cả nước lo lắng này, biết hay không biết những thông tin và những điều nói trên? quan tâm hay không quan tâm tới những chuyện đau đầu này? Họ là ai mà thiết kế dự luật và dự án như vậy? Cơ chế của hệ thống chính trị quốc gia hoạt động như thế nào mà dự luật và dự án về 3 ĐKKT được đưa ra Quốc hội đúng quy trình như vậy? Vân... vân…

Một câu hỏi khác: Giữa lúc lãnh đạo đảng đẩy mạnh chống tham nhũng và cố gắng siết lại hàng ngũ đảng, tại sao lại có thể ra đời một dự luật và một dự án về 3 ĐKKT đầy rủi ro nguy hiểm cho an ninh quốc gia và gây nhiều tranh cãi như vậy?

Nếu trong sự việc này không có yếu tố tham nhũng tiêu cực, thì sẽ chỉ còn lại là những yếu kém của hệ thống chính trị:

-       Trong tầm kiểm soát đang được siết chặt hiện nay của đảng, 3 đặc khu kinh tế và dự luật đi kèm đang được xúc tiến vẫn mang dáng dấp của chủ nghĩa tư bản thân hữu / chủ nghĩa tư bản mại bản, được cổ súy, được thừa nhận, và cuối cùng được đưa ra Quốc hội đúng quy trình! Thật nguy hiểm quá!

Tôi có câu hỏi nghiêm trọng không làm sao tự giải đáp được: Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của nước ta hiện nay cao hơn gấp đôi GDP – mà là GDP của một quốc gia có thu nhập trung bình (thấp) với ngót 100 triệu dân chứ không phải loại hạng bét, nghĩa là nền kinh tế có quy mô khá lớn của nước ta đã mở cửa hết cỡ rồi, tỷ trọng FDI tham gia vào tăng trưởng và phát triển kinh tế nước ta cao ngất ngưởng so với tất cả các nước chung quanh và đang là lực đẩy chính, trong khi đó trên thực tế 30 năm nay nền kinh tế nước ta chủ yếu dựa vào sức sống từ bên ngoài vì mọi khả năng phát triển nội lực đều bị thể chế chính trị và tham nhũng triệt tiêu, tại sao còn phải có thêm 3 ĐKKT như thế này nữa! Không có một lý thuyết kinh tế nào giải thích được. Giả định ta có ngay bây giờ một lúc 10 ĐKKT như trong dự án – chứ không phải là 3! – cũng không đủ sức kéo nổi nền kinh tế ở quy mô này đi lên được, đơn giản vì nó không có nội lực để bước đi cho dù kéo nó đi! Dẫn chứng sờ sờ là cả một mạng lưới khoảng gần 500 khu công nghiệp và  khu kinh tế hiện có hơn 2 thập kỷ nay không làm nổi nhiệm vụ cái vụ máy kéo này cho đất nước: Nguồn nhân lực, kết cấu hạ tầng và thể chế  chất lượng thấp kém và có quá nhiều bất cập, chứ không phát triển!

Chưa nói đến: Chắc gì mỗi ĐKKT như trong dự án đã đưa ra Quốc hội sẽ là một cái “máy kéo” như thế cho đất nước? Nó hoàn toàn có thể là một cái gì đó rất khác như rất nhiều ý kiến phản biện đã chứng minh – lịch sử đã có bài học “con ngựa thành Troy”!

Xin nhấn mạnh một lần nữa:

Nền kinh tế nước ta hiện nay mắc căn bệnh “không chịu phát triển” (đúng ra là “không thể phát triển”), do các thể chế chính sách của chế độ toàn trị đã triệt tiêu nội lực và tham nhũng bóc ngắn cắn dài; vì lẽ này có móc vào vào nó bao nhiêu cái máy kéo cũng vô nghĩa.

Kéo nền kinh tế ở quy mô hôm nay của nước ta đi lên phải bằng những bài toán khác như đã tôi đã nêu ra ở trên – trước hết là một thể chế chính trị - nhà nước cởi trói và phát huy mọi tiềm năng của quốc gia. Ý kiến của giáo sư Trần Văn Thọ cũng tán thành như vậy và đã đưa ra những kiến nghị cụ thể[5].

Hay là 3 ĐKKT này – có ý thức hoặc vô ý thức – mang dáng dấp của chủ nghĩa tư bản mại bản với những mưu đồ khác phía sau mà anh Nguyễn Quang Dy đã vạch ra?[6] Người làm dự án 3 ĐKKT này còn đi xa tới mức vận động cho mở casino và du lịch tình dục để gia tăng sự hấp dẫn, trong khi đó đất nước bị cấm nói đến xã hội dân sự và hòa hợp dân tộc, trì hoãn các đạo luật thực thi những quyền công dân đã ghi trong Hiến pháp, nhưng lại hối thúc xúc tiến bằng được luật về an ninh mạng để bịt mồm dân!.. Đất nước này là đất nước gì vậy?

Chẳng lẽ tất cả chỉ nhằm hấp dẫn …các đại bàng lầm tổ (lời ông Uông Chung Lưu), còn dân thì hỏi đại bàng nào?..

Thực lòng tôi không sao hiểu nổi một số phát ngôn của một số nhân vật là bộ trưởng, đại biểu Quốc hội… lẽ ra phải giải thích có lý có lẽ cho dân hiểu, lại ào ào đổ lỗi cho dân có tâm lý chống TQ nên cái gì cũng lôi TQ vào, trên thế giới các China-towns có khắp mọi nơi có làm sao đâu[7], văn bản dự luật có cụm từ Trung Quốc nào đâu!.. Có cán bộ nói chịu áp lực của dân mà trì hoãn 3 ĐKKT và luật đi kèm là mắc mưu tình báo Hoa Nam, không thông qua trong khì họp này là hữu khuynh! V… v…  

 Ngày 09-06-2018 báo chí đưa tin sẽ chuyển dự án 3 ĐKKT và dự luật sang kỳ họp thứ 6 của QH vào cuối năm 2018 để có thêm thời giờ xét duyệt, tuy nhiên vẫn khẳng định đây là chủ trương lớn của đảng, và những dự án này đã được chuẩn bị công phu… Giữa lúc này tôi được biết nội dung thông báo số 21 TB/TƯ ngày 22-03-2017 kết luận của Bộ Chính trị về các đề án 3 đặc khu kinh tế là chủ trương lớn của đảng đã được thông qua tại nhiều kỳ đại hội, giao cho các cơ quan xúc tiến. Tiếp theo thông báo số 245 TB/TƯ ngày 24-04-2009 về khai thác bauxite Tây Nguyên, đây là lần thứ hai tôi được biết một loại thông báo như thế, và hiểu rằng ý kiến đúng đắn của nhân dân trước sau vẫn không được lắng nghe.

Việc dự luật về 3 đặc khu này cùng với dự luật về an ninh mạng cùng đưa một lúc vào kỳ họp thứ 5 của Quốc hội khóa này chẳng hiểu có sự ngẫu nhiên nào không, nhưng quan sát từ bên ngoài thấy hợp lý và nhịp nhàng vô cùng nếu thực hiện được: Phê duyệt 3 đặc khu đồng thời bịt miệng phản kháng của dân – để rồi từ đây sẽ bịt miệng dân mãi mãi về mọi chuyện khác?! Lợi ích nào chi phối để có được những bước đi hiệp đồng chiến đấu siêu việt đến như vậy để bỏ qua lợi ích và vận mệnh của quốc gia?!..

Xin đừng trách tôi suy nghĩ theo kiểu Tào Tháo, sự việc trên giấy trắng mực đen tự nó đang là như vậy.

Tình hình nêu trên khiến tôi rất lo về chất lượng quyết định của Bộ Chính trị và những nguyên nhân. Song tôi lo hơn nữa là suốt 43 năm độc lập thống nhất vừa qua đã có quá nhiều luồn lách đưa vào Bộ Chính trị những quyết định vô cùng nguy hiểm cho quốc gia và cho đảng, mở đầu là quyết định của Bộ Chính trị đi hội nghị Thành Đô dẫn đất nước vào quỹ đạo Trung Quốc với mọi lệ thuộc và hệ lụy nguy hiểm cho đến hôm nay không sao thoát ra được. Sự thật cũng chứng minh là cho đến hôm nay ở nước ta hầu như không có một quyết định kinh tế hay chính trị quan trọng sai lầm nào mà không có sự  tham gia của cấp lãnh đạo cao nhất.  

Như đã nêu trong thư ngỏ ngày 08-06-2018 gửi Tổng bí thư và toàn thể Bộ Chính trị, một lần nữa tôi xin đề nghị Tổng bí thư và Bộ Chính trị dựa vào những ý kiến phản biện đúng đắn và có trách nhiệm của cả nước, dứt khoát hoãn lại dự án 3 ĐKKT này để sau khi tiến hành cải cách chính trị sẽ xét lại, dứt khoát không sửa lại điều này điều nọ để cố tình thông qua dự án này. Bởi 2 lẽ:

(1)            Các ý kiến phản biện đã bác bỏ một cách thuyết phục dự án 3 ĐKKT như đã trình ra Quốc hội là lỗi thời và không thể hứa hẹn bất kể một lợi ích kinh tế nào cho đất nước. Trong khi đó có nhiều việc khác trong tầm tay rất cần làm để mang lại lợi ích phát triển lớn lao cho đất nước.

(2)            Song quan trọng hơn nhiều là trong bối cảnh khu vực và quốc tế cực kỳ nhạy cảm hiện nay, Biển Đông đang ở trong tình trạng bên miệng hố chiến tranh, chủ quyền và an ninh quốc gia của nước ta bị thách thức hơn bao giờ hết, không cho phép  tồn tại trên lãnh thổ nước ta 3 ĐKKT như trong dự án, dù là được sửa đổi như thế nào, và dù chỉ là một ngày.

Bộ Chính trị nên hiểu việc hủy bỏ dự án 3 ĐKKT và luật an ninh mạng là nguyện vọng  chính đáng của lòng yêu nước và là ý chí sắt đá bảo vệ tổ quốc của nhân dân. Cố tình chống lại thực tế này, tôi e rằng nhân dân cả nước sẽ bị thách thức nghiêm trọng một lần nữa, phản ứng của nhân dân sẽ đi tới bất khả kháng, tình hình sẽ vô cùng nguy hiểm nếu đất nước rơi vào cảnh thịt nát xương tan!  

Nhìn theo bất kỳ khía cạnh nào, phản ứng của nhân dân đối với 3 ĐKKT và luật an ninh  mạng cho thấy thấy đất nước đang đứng trước một cuộc cải cách chính trị đã chín muồi, càng chậm trễ, tình hình sẽ càng trở nên nguy hiểm không đảo ngược được.

Trở lại bàn về đại hội XII.

Cũng có thể kiến nghị của tôi tiến hành Đại hội XII theo hướng cải cách chính trị như đã nêu trong các bài đã viết (và được tóm tắt lại trên đây) là ảo tưởng thật – vì nó không phù hợp với nội tình hiện nay của đảng, và vì thế tôi sai là phải, mặc dù cảnh báo của tôi về mối nguy Đại hội sẽ tiến hành theo xu thế bên thắng / bên thua là đúng.

Với cách hiểu như vậy, kiến nghị này của tôi sai, có thể vì:

-       Đấu tranh quyền lực chính trị phe nhóm thường mang tính đối kháng – một dạng zero sum game, không thể tìm ra thỏa hiệp giữa họ với nhau trong lợi ích chung của quốc gia.

-       Không có phe nhóm có quyền lực nào chủ trương cải cách chính trị để chuyển đất nước sang thời kỳ phát triển mới – vì điều này đồng nghĩa với triệt tiêu lợi ích của chính họ.

-       Trình độ chính trị của đảng viên quá thấp vì rất nhiều lý do khác nhau, do đó bị các phe nhóm thao túng; các đại biểu đến Đại hội thực ra chủ yếu chỉ là lễ nghi thực hiện những gì đã được dàn xếp, quyết định.

-       Trong Đảng chưa có tiếng nói đủ mạnh đặt lợi ích quốc gia lên trên hết (như trường hợp của Myanmar), để tạo ra áp lực đủ mạnh đòi phải tiến hành cải cách chính trị.

 

Nghĩa là, vì duy tâm như tôi, kiến nghị của tôi thất bại là đích đáng!?

Điều tôi vô cùng tiếc nuối là ĐCSVN hiện nay vẫn là lực lượng chính trị lớn nhất quốc gia, chỉ cần bộ phận đầu não của Đảng có trí tuệ, lòng yêu nước và tinh thần dân tộc như đội ngũ tinh hoa của Myanmar – dù phe phái như thế nào, chắc chắn đất nước ta sẽ có thể tiến hành thắng lợi cuộc cải cách chính trị đã chín muồi, mở ra cho đất nước một tiền đồ mới xứng đáng. Đây cũng là thông điệp tôi muốn nói với những người đang nắm trong tay vận mệnh của Đảng và của đất nước.

Hay là một lần nữa tôi lại duy tâm?

 – Có thể lắm, vì hai lẽ:

(1)            Cái thanh gươm Damocles Trung Quốc đầy uy hiếp đang lơ lửng trên đầu quyền lực ĐCSVN? - và

(2)            Tầm nhìn, bản lĩnh và phẩm chất của lãnh đạo Đảng hiện nay chỉ thấy được sự tồn tại của mình trong duy trì chế độ toàn trị!?

Cho phép tôi gửi thông điệp trên với một câu hỏi chung, xin đặt ra cho tất cả mọi người – ngoài đảng và trong đảng – quan tâm đến vận mệnh quốc gia:

     Chúng ta muốn tiền đồ của ĐCSVN gắn với một Việt Nam phát triển, hay với một Việt Nam của chế độ toàn trị?

 

-       Gắn với nước Việt Nam phát triển, trước đó ĐCSVN phải thay đổi chính mình thành đảng của dân tộc – đây là điều kiện tiên quyết. Khỏi phải nói đảng này sẽ như thế nào trong lòng dân tộc và trong lịch sử quốc gia, nếu nó trở thành hạt nhân và động lực thúc đẩy hình thành nên một Việt Nam như thế!

-       Gắn với một Việt Nam của chế độ toàn trị, sẽ kéo dài những gì đã diễn ra trên đất nước suốt 43 năm qua, hết PMU 18 lại đến Đồng Tâm, đến Thủ Thiêm, Formosa… Để rồi sẽ tái phát những trọng tội này, với mọi hệ lụy tất yếu cho đến khi dân có cớ và có lực lật thuyền!..

Xin đừng để cho kịch bản thịt nát xương tan này xảy ra!

 

II. Trước sau tôi vẫn lựa chọn con đường cải cách chính trị đi qua ĐCSVN

 

“Toàn bộ những nỗ lực của hai họ Phạm – Huỳnh và con cháu họ 4 thập kỷ nay muốn phục thiện cái đảng thống trị đất nước đã tha hóa ruỗng nát và mong cứu vãn đất nước.

Quyền lực tha hóa đã đáp lời: Giết chết Phạm Trung Trung Nam!”

Với thông điệp rút ra từ “Lũ” như trên, với thất bại trong kiến nghị về Đại hội XII, tôi trước sau vẫn kiên trì lựa chọn con đường hòa bình tiến hành cải cách chính trị đi qua ĐCSVN.

Bất chấp việc chính tôi cũng phải thừa nhận đảng này và chế độ này đáng phải sụp đổ ba, bốn lần rồi!

Bất chấp việc tôi cũng mấy lần viết ra như vậy trong một số thư gửi những người lãnh đạo đảng và nhà nước!

Kiên trì như thế, song chính tôi cũng phải tự hỏi mình nhiều lần: Hay là bản thân mình cũng điên đến mức hết thuốc chữa rồi!?

-       Không phải như vậy!

Đấy là sự lựa chọn tôi đã đánh vật với nó mấy thập kỷ nay, nhất là từ khi bắt tay vào viết “Dòng đời”. Nếu nhìn vào những gì gia đình và họ tộc của tôi đã phải trải qua, tôi còn muốn nói lựa chọn này là kết quả của một quá trình tôi tự vượt lên chính mình.

Đương nhiên, đây chỉ là sự lựa chọn của cá nhân tôi – của 1 trong 96 triệu dân Việt Nam có quyền và muốn thực hiện sự lựa chọn riêng của mình như thế cho tổ quốc của mình!

Trong nhiều bài viết về đòi hỏi cải cách chính trị, tôi đã trình bầy đại thể 3 vấn đề chính[8] cần được giải quyết, và chỉ có thể giải quyết được thông qua cải cách chính trị:

1.     Cái gốc phải giải quyết của nước ta ngay bây giờ và từ nay mãi mãi về sau là vấn đề phát triển, chứ không phải là câu chuyện làm cách mạng bạo lực! Phải từ chỗ đứng hiện nay huy động mọi tiềm lực vật chất và tinh thần của quốc gia tập trung giải quyết vấn đề của phát triển. Đây là con đường duy nhất để bảo vệ độc lập chủ quyền, khắc phục lạc hậu và tụt hậu, mau chóng giành lấy vị thế quốc tế mới với tiềm lực mới để tồn tại và phát triển, chỉ có thể giành được thông qua hòa bình cải cách chính trị.

2.     Đất nước vừa mới trải qua 4 cuộc chiến tranh khốc liệt, phải tránh cho đất nước mọi thảm họa mới. Một phần không thể nói mọi vết thương chiến tranh đã được khắc phục, một phần vì vết thương dân tộc vẫn còn rỉ máu, một phần vì 43 năm qua – nhất là từ khi chế độ toàn trị lên ngôi – trong lòng đất nước lại tích tụ thêm những mâu thuẫn mới, xung đột mới, và có nhiều vấn đề nóng, một phần còn vì hệ quả của vấn đề ngu dân và những tàn tích văn hóa… - trong những điều kiện như vậy bất kể một biến động bạo lực nào đều có thể gây ra một cuộc bể dâu mới khôn lường, và ngay lập tức mời gọi sự can thiệp từ bên ngoài – nhất là từ Trung Quốc. Thực tế này đòi hỏi phải sớm đưa đất nước ra khỏi tình trạng quẫn bách đã kéo dài suốt 43 năm độc lập thống nhất đầu tiên: Quốc gia độc lập nhưng vẫn èo uột, dân không có tự do, đất nước càng phát triển trong chế độ toàn trị của đảng nắm quyền càng lệ thuộc và phụ thuộc, bị uy hiếp nhiều bề!

3.     Tọa độ trên vị trí địa đầu khu vực Đông Nam Á, nước ta vừa nằm trong vùng tranh chấp quyền lực quyết liệt giữa Trung Quốc và Mỹ, nằm trên cửa ngõ quan trọng nhất của đế chế Trung Quốc đi xuống phía Nam, chịu nhiều áp lực nhất của sức mạnh Trung Quốc tại chỗ, vừa có thể là cầu nối giữa khu vực và thế giới bên ngoài có lợi cho xu thế hòa bình và phát triển, đồng thời là một nước có vị trí quan trọng trong ASEAN. Trong tình hình Trung Quốc trở thành vấn đề của cả thế giới, những đặc điểm địa kinh tế - địa chính trị của nước ta vừa kể trên càng mang tính quyết liệt trên cả 2 phương diện thách thức và cơ hội. Bối cảnh quốc tế và khu vực của nước ta như vậy tất yếu  đặt ra đòi hỏi sống còn nước ta phải có đủ sức mạnh và bản lĩnh thoát khỏi thân phận từ sau chiến tranh thế giới II cho đến hôm nay đã rơi vào không thoát ra nổi: đó là thân phận “miếng da lừa” cho mọi ông lớn giành giật – nếu không đi với một bên chống một bên thì lại phải “leo dây” giữa các nước lớn, vận mệnh đất nước ta do bên ngoài quyết định. Chỉ có thể thông qua cải cách chính trị, canh tân đất nước, để vươn lên một quốc gia có thế và lực tự quyết định lấy vận mênh của mình! Không có một cuộc cách mạng nào – kể cả con đường xây dựng CNXH hay CNML có thể giúp nước ta thực hiện được nhiệm vụ này.

Sức sống của nước ta trong 4 cuộc chiến tranh đã trải qua và trong 43 năm độc lập thống nhất đầu tiên cho thấy không phải là đất nước ta, dân tộc Việt Nam ta không có khả năng giải quyết thành công 3 vấn đề trọng đại nêu trên. Nhưng nước ta thực sự có vấn đề là ĐCSVN – lực lượng chính trị lớn nhất nước đồng thời là đảng độc nhất nắm vận mệnh đất nước – không nhìn ra và không có khả năng, và ngày nay do tha hóa nên không có cả bản lĩnh phát huy sức mạnh dân tộc để giải quyết 3 vấn đề chiến lược nêu trên. Đảng như thế, đang trở thành trở lực đối với giải quyết 3 nhiệm vụ chiến lược này.

Thực tế cũng đang cho thấy: (a) trong chế độ toàn trị hiện nay không thể xuất hiện một hay những lực lượng chính trị nào trong nước có thể đối trọng với ĐCSVN và quyền lực nó đang nắm trong tay; (b) có những thế lực kinh tế trong ngoài hỗn hợp đang có những ảnh hưởng lũng đoạn nhất định đối với ĐCSVN theo hướng muốn duy trì vai trò ĐCSVN để thực hiện những lợi ích của họ; (c) sự can thiệp của quyền lực mềm Trung Quốc vừa là phương tiện của TQ kiểm soát ĐCSVN, đồng thời vừa là chỗ dựa cho sự tồn tại của ĐCSVN.

Với tương quan so sánh lực lượng như nêu trên, rất khó xảy ra sự thay đổi nào của ĐCSVN đến từ những áp lực của nội bộ xã hội Việt Nam. Sự vận động hiện nay của ĐCSVN vẫn là tiếp tục quá trình tha hóa tự thân trong chế độ toàn trị cho đến khi tự sụp đổ, hoặc bất cập và không kiểm soát được những thách thức trong nước hoặc từ bên ngoài sẽ dẫn tới đảng bị lật đổ - như đã xẩy ra ở các nước LXĐA cách đây gần ba thập kỷ. Vô luận một sự sụp đổ như vậy vì nguyên nhân nào (tha hóa tự thân, hoặc bất cấp trước thách thức không kiểm soát được) đều gây ra đổ vỡ khốc liệt cho quốc gia, và đồng thời sẽ xóa bỏ hoàn toàn sự nghiệp của ĐCSVN với hệ lụy nhiều mặt. Đây chính là con đường đau khổ mới đất nước đang đi, càng đi càng gian truân, càng đi càng tới gần hơn nữa hiểm họa hủy diệt chung cho cả nước – không loại trừ một ai.

Nhận định tình hình như vậy, tôi muốn đưa ra câu hỏi:

Có thể có hay không? Và Nên hay không chủ động tạo ra sự hợp tác giữa một bên là những đảng viên ĐCSVN còn nặng lòng yêu nước và giác ngộ lợi ích quốc gia, một bên là những tiếng nói và lực lượng chân chính trong nhân dân, để cùng nhau mang lại sự thay đổi thực trạng và bản chất thực hiện nay của ĐCSVN, lột xác nó để nó trở thành đảng của dân tộc và dân chủ, giao cho nó với tính chất là một đảng mới như vậy đảm nhiệm vai trò cầm lái đất nước trong khuôn khổ thể chế chính trị mới của nhân dân do sự hợp tác này tạo dựng nên? Cần tiến hành sớm thảo luận dân chủ trong nội bộ ĐCSVN vấn đề sống còn này của đảng – vì nó liên quan trực tiếp đến vận mệnh quốc gia!

Những người giữ trọng trách trong đảng còn nặng lòng với đất nước có trách nhiệm ràng buộc phải chủ động giành lấy cho đảng và cho đất nước sự hợp tác như thế!

Trong tầm tư duy của tôi, tôi không tìm ra được con đường nào tối ưu hơn!

Cũng trong tầm tư duy của tôi, xin đặt ra câu hỏi:

Tại sao những người nắm thực quyền trong ĐCSVN không tính đến và dựa vào nhân dân để chủ động thiết kế một con đường như thế?

Hỏi được hay không hỏi được như vậy, trả lời được hoặc không trả lời được câu hỏi như vậy, sẽ làm rõ bản chất và tầm nhìn từng người có thực quyền trong đảng!

Tôi hy vọng, như thế tôi đã giải trình rõ lý do tôi lựa chọn con đường hòa bình cải cách chính trị đi qua ĐCSVN. Bởi vì bất kỳ sự phát triển nào của quốc gia nào trên trái đất này, đều cần có sự lãnh đạo của giới tinh hoa và lực lượng chính trị đủ tầm của nó dẫn dắt! Đây chính là con đường tạo lập ra cho quốc gia của chúng ta một giới tinh hoa và lực lượng chính trị đúng tầm phải có như thế của nó! Không thể có sự phát triển tự phát! Càng không thể có sự phát triển như thế bằng một cuộc cách mạng đập phá tất cả để làm lại từ đầu như đã từng xẩy ra trong lịch sử các quốc gia trên thế giới cho đến hôm nay – kể cả cuộc Cách mạng Tháng Tám của chúng ta, CNML càng không! Đơn giản vì cách mạng không làm nhiệm vụ phát triển. Cách mạng chỉ có thể làm chức năng tạo điều kiện hay mở đường cho phát triển. Còn toàn bộ sự nghiệp phát triển phải là sự vận động tự thân liên tục và mãi mãi của toàn quốc gia trong thể chế chính trị dân chủ và tiến bộ phải có.

 

III. Đảng Cộng Sản Việt Nam phải tự thay đổi chính mình

            Lời thay mặt Bộ Chính trị của tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng tại hội  nghị TƯ 6 khóa XI nhận lỗi trước toàn dân và toàn đảng về tệ nạn tham nhũng và những yếu kém của đảng tự nó đã đặt ra vấn đề ĐCSVN phải tự thay đổi chính mình. Nghiêm túc với đất nước thì phải nghĩ như vậy.

            Lấy 3,5 triệu đảng viên hôm nay, so với thời Cách mạng Tháng Tám chỉ có 5000 đảng viên, phải nói ĐCSVN hôm nay sa sút nghiêm trọng, hầu như đã mất hết tính tiền phong chiến đấu một thời đã làm nên lịch sử vinh quang của đảng trong quá khứ. Sự tha hóa về phẩm chất, đạo đức là rất nghiêm trọng, điều này dễ nhận thấy được. Song theo tôi, nếu 5000 đảng viên thời CMTT vừa là ý chí, vừa là trí tuệ dẫn dắt nhân dân làm cách mạng – thời 4 cuộc kháng chiến đảng viên cũng làm được vai trò này; thì 3,5 triệu đảng viên hôm nay chủ yếu chỉ giữ vai trò công cụ quyền lực của một đảng cai trị! Một sự khác biệt 1800, đến mức đối kháng!

Theo tôi: Đây không còn là một hiện tượng tha hóa nữa, cũng không phải là biến chất của đảng viên. Thật ra đấy là hiện tượng quyền lực trong đảng trên thực tế đã vứt bỏ Cương lĩnh và Điều lệ đảng sang một bên, nhân danh tổ chức của đảng tự cho phép mình thông qua những luật, lệ, và quy định thành văn hoặc không thành văn, đi kèm với các lợi ích ban cho, để từng bước chủ động buộc cho các đảng viên và các tổ chức cơ sở đảng nhiệm vụ và chức năng là công cụ mang tính chuyên chính của đảng cai trị và chế độ toàn trị. Sự việc quyền lực trong đảng nhân danh tổ chức chủ động vi phạm nghiêm trọng Cương lĩnh và Điều lệ Đảng như vậy trên thực tế đã tự tay chủ động tước bỏ vai trò tiền phong chiến đấu của từng đảng viên.

3,5 triệu đảng viên của đang hôm nay nằm trong các tổ chức cơ sở đảng xuống đến tận thôn, xóm, trường học, xí nghiệp… khắp cả nước, bây giờ còn được bổ sung thêm công an chính quy xuống từng xã. Song cho đến nay có thể nói, các tổ chức cơ sở này của đảng ngoài nhiệm vụ thực thi quyền lực chuyên chính của đảng và chính quyền ở cơ sở hay địa phương mình, chưa một lần phát hiện được lấy một vụ tham nhũng tiêu cực đáng kể nào ở địa phương, chưa có đóng góp đáng giá nào vào các vấn đề quốc kế dân sinh của địa phương mình, chưa làm được vai trò tiền phong chiến đấu của mình, càng không phải là chỗ dựa cho nhân dân địa phương mình trong không biết bao nhiêu vấn đề họ phải vật lộn với cuộc sống hàng ngày – nghèo đói, bất công xã hội, ô nhiễm môi trường, hủ tục, cái dốt, cái ác, tệ nạn xã hội, tham nhũng tiêu cực ngang nhiên hoành hành nhiều nơi!  Trong khi đó đảng lại cấm xã hội dân sự lẽ ra nó phải là nơi nhân dân bẩy tỏ tiếng nói của mình và là môi trường sống và rèn luyện của các tổ chức cơ sở đảng. Đây là biểu hiện đặc trưng nhất của sự biến chất của ĐSVN từ đảng lãnh đạo sang đảng toàn trị: đảng rất lớn, quyền lực rất lớn, song hầu như toàn đảng chỉ còn chức năng là công cụ để phục vụ quyền lực trong đảng ngự trị đất nước.

            Vài nét khái quát như thể để nói lên tính bức thiết ĐCSVN hôm nay cần tự thay đổi chính mình và thay đổi những gì. Chính vì những lý do này, thư ngày 09-08-1995 của thủ tướng Võ Văn Kiệt đặt vấn đề: Đảng phải thay đổi về đường lối, và trên cơ sở đó thay đổi về tổ chức! Mong sẽ có dịp được bàn bạc chủ đề trọng đại này.

            Cần lưu ý một thực tế khách quan: Vấn đề đảng chính trị trong một thể chế quốc gia độc lập có chủ quyền luôn luôn là một vấn đề khó, biến đổi không ngừng trong quá trình vận động và phát triển của mỗi quốc gia.

Hiện nay nổi lên mấy vấn đề:

1.     Tại các nước phát triển có thể chế chính trị đa nguyên, đảng phái chính trị thường xuyên đứng trước nguy cơ không theo kịp về nhiều phương diện như tổ chức, đường lối, phương thức hoạt động… trước những đòi hỏi và thách thức trong quá trình vận động của đất nước. Song chính những nguy cơ này là động lực quyết định, thường xuyên thôi thúc sự vươn lên và cạnh tranh mất / còn của các đảng phái chính trị. Đương nhiên, chính trị (như tôi vẫn coi là bẩn thỉu) nhiều khi không có khái niệm đạo đức, mọi cái xấu và cái ác đều có thể xảy ra ở các đảng phái chính trị trong thể chế đa nguyên, song cũng được kiểm soát đáng kể bởi chính thể chế chính trị dân chủ đa nguyên. Cho đến nay văn minh của xã hội loài người về tổ chức thể chế quốc gia chưa có cái gì có thể đi xa hơn sự vận động của hệ thống rường cột kinh tế thị trường – nhà nước pháp quyền – xã hội dân sự. Do đó hoàn thiện hệ thống rường cột này và làm cho nó thích nghi với sự vận đông không ngừng và đầy biến động trong cuộc sống vẫn là vấn đề hàng ngày của mọi nước phát triển.

2.     Tại các nước có chế độ toàn trị một đảng, vì không có sức ép của kinh tế thị trường, không có môi trường cọ sát / sàng lọc của xã hội dân sự và thể chế nhà nước pháp quyền dân chủ, nên ngoài những nguy cơ hay thách thức của những đảng chính trị trong thể chế đa nguyên nói trên (tuy không có nguy cơ cạnh tranh với các đảng phái khác, nhưng thay vào đó lại là áp lực của xung đột quyết liệt giữa dân và chế độ toàn trị), còn có thêm những nguy cơ như: ăn bám (thường bị gọi trẹo đi là tính phong kiến, gia đình trị…), bảo thủ, mafia hóa, bè phái, cục bộ, phát xít hóa... Cuối cùng – gần như không có ngoại lệ - đảng trên thực tế biến thành công cụ của quyền lực đảng. Đấy là những nguy cơ có xuất xứ cấu thành từ 2 nguồn gốc: (a)do thể chế sinh ra, và (b)do tha hóa đạo đức con người. Những nguy cơ đặc thù này trong chế độ toàn trị cho thấy việc thay đổi, đổi mới đảng của chế độ toàn trị hầu như là không thể nếu không gắn hữu cơ với thay đổi thể chế chính trị.

Vì vậy, nếu không tiến hành cải cách để thay đổi thể chế chính trị, tất yếu sẽ dẫn tới hệ quả: Chế độ chính trị sớm muộn sẽ đi tới sụp đổ, qua đó xóa bỏ sự tồn tại của đảng như đã xảy ra ở các nước LXĐÂ. Hoặc đảng càng muốn tồn tại, thì càng phải toàn trị hơn nữa, như đang diễn ra ở Trung Quốc, Việt Nam…

3.     Cuộc sống không ngừng phát triển, khả năng xử lý của con người thường phải đuổi theo sau những vấn đề mới nẩy sinh – hiện nay là xuất hiện nhiều vấn đề mới chưa có lời giải trong quá trình phát triển vả biến động không ngừng của toàn cầu hóa và của những tác động mới của cách mạng công nghiệp 4.0, người ta đã phải nói đến những bất cập mới của thể chế dân chủ và của một số giá trị hiện hành, nảy sinh từ những vận động và phát triển mới của cuộc sống[9]. Toàn bộ hiện tượng bất cập này (tôi xin tạm dùng khái niệm này) được quan sát rất rõ qua những cuộc bầu cử vừa qua ở một số nước phát triển, hiện tượng Trump ở Mỹ, hiện tượng các trào lưu dân túy mới lây lan nhiều quốc gia như một bệnh cúm với mọi biểu hiên phái sinh khác nhau (bao gồm cả một số hiện tượng phát xít, phân biệt chủng tộc, hiện tượng đòi ly khai hay chia tách quốc gia…), vấn đề di cư lao động và vấn đề nhập cư.., những xáo động trong các liên minh kinh tế, chính trị, quân sự, vấn đề Trung Quốc của cả thế giới chưa có lời giải… V.., v… Toàn bộ cái gọi là hiện tượng bất cập này là sự phát triển không ngừng và khách quan của sự vật, đặt ra cho mỗi nước – nghĩa là không loại trừ quốc gia nào – những thách thức mới trong quá trình nó xử lý mọi vấn đề đối nội và đối ngoại của mình. Thực tế này đòi hỏi hơn bao giờ hết mỗi quốc gia – nhất là các nước nhỏ yếu hơn – phải giành lấy cho mình quyền và khả năng tự quyết định vân mệnh của mình trong cái thế giới đầy biến động mới.  

Xin nói ngay tại đây: Việc cải cách chính trị và đổi mới đảng của Việt Nam nếu thoát ly thực tế này sẽ tự chuốc lấy những nguy hiểm có thể.

Như một phản ứng tất yếu, giới tinh hoa của các nước phát triển nhấn mạnh: Thế giới hôm nay hơn bao giờ hết đòi hỏi các quốc gia của họ phải được dẫn dắt bởi sự lãnh đạo anh hùng… (heroic leadership – Niall Ferguson –  hàm ý người lãnh đạo tài ba và đảng chính trị mạnh)[10].

Đến đây có thể rút ra:

Những thách thức trong thế giới đã sang trang đi vào cục diện quốc tế mới khiến Việt Nam đứng trước đòi hỏi không có đường lùi (như đã trình bầy trên): Phải tiến hành cải cách chính trị đưa đất nước tiến lên phía trước, bắt đầu từ thay đổi ĐCSVN trở thành đảng của dân tộc.

Song lựa chọn những mục tiêu nội / ngoại và những bước đi, cách đi thế nào là đúng với lực / đòi hỏi của nước ta và đồng thời thích nghi tối ưu thế giới hôm nay?

Đấy là câu hỏi xin cùng nhau quan tâm nghiên cứu, mổ xẻ.

Dưới đây tôi xin trình bầy một số suy nghĩ vô cùng sơ bộ ban đầu.

Cần xác định mục tiêu chiến lược của cải cách chính trị phải thực hiện là: Giải phóng và phát huy sức mạnh dân tộc giành lấy quyền tự quyết định lấy vận mệnh quốc gia của mình trong thế giới đã hình thành một trật tự quốc tế mới và đang có nhiều kẻ điên, quyết đưa dân tộc ta vươn lên dân tộc trưởng thành của quốc gia trưởng thành, để giành vị thế đất nước phải có tại vị trí địa đầu của khu vực và trong cái trật tự mới đang hình thành của thế giới hôm nay.

            Đấy là quyết định chuyển đất nước sang một giai đoạn phát triển mới: Đất nước bắt buộc phải vứt bỏ thân phận “miếng da lừa”, để đổi đời trong thế giới hôm nay, thức tỉnh ý chí và sức mạnh dân tộc thực hiện bằng được! Đó thực sự là một thay đổi mang tính chất cách mạng dân tộc và dân chủ của đất nước, do đòi hỏi phát triển tự thân của đất nước và do bối cảnh thế giới mới hôm nay đặt ra cho nước ta. Toàn dân phải giác ngộ đưa tổ quốc mình bước vào giai đoạn quyết liệt này.

            Riêng đối với ĐCSVN với tích cách là đảng độc quyền trong chế độ toàn trị hôm nay, cần nhận thức dứt khoát cải cách chính trị phải thực hiện như vậy hoàn toàn không phải là một giải pháp tình thế đảng phải chấp nhận. Tuyệt đối không nên tư duy như vậy.

            Trong thâm tâm mỗi người đảng viên, trước hết là trong hàng ngũ những người nắm quyền lực trong đảng, cần xác định cải cách chính trị lần này là khắc phục lỗi lầm đối với đất nước, vì đã bỏ qua nhiệm vụ thiêng liêng đã hứa và lẽ ra đã phải thực hiện sớm nhất có thể sau 30-04-1975: Trao lại cho nhân dân với tính cách là người tự do quyền làm chủ đất nước độc lập thống nhất! Đảng dẫn dắt nhân dân theo đảng kháng chiến cứu nước, nhưng giành được thắng lợi thì đảng tiếm quyền trở thành người chủ đất nước và cai trị dân! [Tôi đã trình bầy suy nghĩ này trong “Dòng đời” và trong nhiều bài viết khác, kể cả những bài và thư đã gởi trực tiếp cho lãnh đạo đảng và nhà nước.]

            Còn một chuyện nữa cũng phải rành rẽ: Không thể bê nước ta đi đâu được, phải tìm cách sống đàng hoàng, hữu nghị thật, hợp tác thật – bền vững, lâu dài với Trung Quốc, song không theo ai và chống ai mà chỉ theo lẽ phải, cùng đi với cả nhân loại văn minh, cũng không để cho ai khuất phục ta.

Nhất là xin đừng mơ hồ, nhầm lẫn như lâu nay:  

-       Nhiệm vụ chính trị duy nhất và tối cao của ĐCSVN đối với nước Việt Nam trong cục diện thế giới hôm nay là phải bứt bằng được đất nước ta ra khỏi thân phận trở thành “miếng da lừa”, để quyết trở thành quốc gia độc lập, tự do, hạnh phúc.

-       Còn từ lâu, và gần đây nhất tại đại hội 19, ĐCSTQ đã tự khẳng định nhiệm vụ chính trị đời đời của nó là phục hưng đế chế Trung Hoa “để dẫn dắt” thế giới, trao cho Tập Cận Bình cầm cương đất nước suốt đời để thực thi!

Hai nhiệm vụ chính trị của 2 đảng khác nhau như nước với lửa, như ngày và đêm như vậy. Tại đây, xin đọc lại cuối Phần một đánh giá về ngoại giao của nước CHXHCNVN, trong đó so sánh ĐCSVN với ĐCSTQ, để thấy rõ sự khác biệt trên mọi phương diện đối nội và đối ngoại giữa hai đảng này.

Chúng ta phải tự vươn lên thành người trưởng thành, không bao giờ bài Hoa, nhưng cũng không đánh mất mình, để sống làm người biết tự trọng và giành lấy sự tôn trọng.

            Xin hãy xác định rành mạch với nhau mọi bề về nhiệm vụ, nghĩa vụ và đạo lý như thế, để tiến hành cải cách chính trị đúng hướng, thực tâm, quyết tâm, hết lòng và kiên định đến cùng!

            Trên hết cả, đất nước đang bước vào một trật tự quốc tế mới, cùng với đòi hỏi tự thân của phát triển đất nước phải đi vào giai đoạn mới, tất yếu đất nước phải có sự lãnh đạo mới của tinh hoa đất nước. ĐCSVN hôm nay phải  quyết tự thay đổi chính mình để thực hiện được nhiệm trọng đại này: Quyết tự cải tạo để trở thành lực lượng tinh hoa của dân tộc.

Nếu ĐCSVN hôm nay và đội ngũ lãnh đạo của nó không xác định rành mạch như thế, sẽ chẳng có gì để bàn về nhiệm vụ cải cách chính trị nữa. Mà như thế, con đường cải cách đi qua ĐCSVN cũng sẽ không thể có lý do để tồn tại.

Về đại thể, cải cách chính trị nên chia làm 2 thời kỳ:

(a)             sớm hình thành một nền nội trị vững mạnh như một điều kiện tiên quyết giải phóng mọi năng lượng quốc gia cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước, đủ sức sẵn sàng ứng phó mọi tình huống – cơ hội cũng như thách thức – đây là cái nhất biến để ứng vạn biến;

(b)            xây dựng một thể chế quốc gia dân tộc và dân chủ trên nền tảng kinh tế thị trường – nhà nước pháp quyền – xã hội dân sự để trở thành nước phát triển.

 

Để tiến hành cải cách chính trị, đảng cần đổi mới chính mình đi trước một bước, để dẫn dắt toàn bộ quá trình cải cách của đất nước.

            Theo suy nghĩ của tôi, đảng nên dựa vào tiến trình cải cách chính trị của đất nước, xây dưng lại đảng về đường lối và về tổ chức, để trở thành một đảng của dân tộc và dân chủ, phấn đấu là lực lượng tinh hoa của đất nước, đưa quốc gia trở thành một nước phát triển, như thủ tướng Võ Văn Kiệt đã kiến nghị trong thư 09-08-1995.

Về nhiều mặt trên thực tế, đổi mới đảng như thế gần như là hình thành nên một đảng mới, thiết lập nên từ đòi hỏi của giai đoạn phát triển mới của quốc gia trong bối cảnh trật tự quốc tế mới hôm nay. Đây sẽ phải là một chính đảng kế thừa xứng đáng tiền thân của mình là Đảng Cộng Sản Việt Nam đã hoàn thành vẻ vang sự nghiệp giành lại độc lập – thống nhất cho đất nước. Nói cho hết nhẽ: Toàn bộ nhiệm vụ đổi mới đảng như vậy là tìm con đường thay đổi ĐCSVN hôm nay về tất cả, để từ lực lượng chính trị lớn nhất cả nước này hình thành nên một lực lượng tinh hoa của dân tộc! Đây là một siêu nhiệm vụ, như phải chọn giữa sống và chết vậy! Làm được thì sống, không làm được thì chỉ còn cách để cho quá trình tha hóa làm nốt nhiệm vụ thối rữa đến không còn gì của nó! Mong trí tuệ trong đảng phải thức tỉnh điều này.

Có thể tôi duy tâm, song nói hết lời: Trong thâm tâm tôi muốn ĐCSVN hôm nay tự thay đổi đúng với tinh thần tự cải tạo chính mình để trở thành đảng của dân tộc, kế thừa xứng đáng truyền thống cách mạng vẻ vang của các bậc tiền bối đã hoàn thành sự nghiệp giành độc lập và thống nhất đất nước. Với nội dung triết học và đạo lý như vậy tự cải tạo vì nước  sẽ mở ra một trang sử mới: Đảng có thể hoàn thành mọi nhiệm vụ tổ quốc đặt ra trong cục diện quốc tế mới hôm nay!

            Với cách đặt vấn đề như vậy, để thay đổi chính mình, đảng cần

-       Xác định những nhiệm vụ chính trị phải thực hiện để tiến hành thành công cải cách chính trị với các mục tiêu chiến lược như đã nêu trên. Tất cả phải xoay quanh và phục vụ 2 nhiệm vụ trung tâm: (1) Sớm đưa nước ta trở thành nước phát triển cùng đi với cả thế giới; (2) Xử lý thành công mối quan hệ với Trung Quốc.

-       Xây dựng phương thức đảng thực hiện những nhiệm vụ chính trị của mình trong quá trình tiến hành cải cách chính trị trên cơ sở hoàn thiện và phát huy hệ thống rường cột quốc gia là kinh tế thị trường – nhà nước pháp quyền – xã hội dân sự.

-       Tổ chức lại đảng cho phù hợp với vai trò, nhiệm vụ, chức năng và phương thức vận động của đảng trong thể chế rường cột của quốc gia là kinh tế thị trường – nhà nước pháp quyền – xã hội dân sự.

Trong bài “Cùng nhau mở con đường cải cách, đưa đất nước vào thời kỳ phát triển mới[11] tôi đã kiến nghị sơ bộ nội dung và tiến trình cuộc cách chính trị như đang nói ở đây.

Xin đặc biệt lưu ý: Đòi hỏi phát triển tự thân rất quyết liệt của đất nước và những thách thức mới rất gay gắt của thế giới bên ngoài đang chuyển sang giai đoạn phát triển mới (1) đã làm lỗi thời tư duy và hiểu biết chúng ta sẵn có, (2) đặt chúng ta trước nhiều vấn đề chưa có lời giải, và (3) đòi hỏi chúng ta phải bỏ lối nghĩ và cách làm ăn theo kiểu “copy & paste) để tìm cho ra con đường sáng tạo riêng, lối đi riêng của đất nước để sống sót, tồn tại và phát triển. Vì 3 đòi hỏi sống còn này, trong bài tôi đã đề nghị và nêu ra những lý lẽ phải vượt lên trên mọi ý thức hệ và từ bỏ chủ nghĩa Mác-Lênin rất sai lầm được du nhập vào nước ta[12]. Thay vào đó là lấy các giá trị trường tồn trong văn minh nhân loại, những kiến thức và trí thức mới của thời đại cách mạng công nghiệp 4.0 để tìm ra lối đi và những quyết sách phục vụ 2 nhiệm vụ trung tâm, với tinh thần đời đời cha chuyền con nối quyết thực hiện bằng được!

Hơn thế nữa, con đường đất nước ta đã trải qua trong 2 thế kỷ vừa qua, nhất là từ năm 1930 cho đến hôm nay, đã mang lại cho đất nước ta một kho tàng quý báu những kinh nghiệm và bài học thành / bại rất đắt, rất hữu ích, hiếm có quốc gia nào có được! Tôi dám cả quyết: Nếu có ý chí và bản lĩnh vận dụng kho tàng kinh nghiệm và bài học này của quốc gia trong tầm nhìn mới của tri thức hiện tại, chắc chắn nhân dân ta sẽ thực hiện thành công 2 nhiệm vụ trung tâm của quốc gia.

Tôi xin nhấn mạnh: Cuộc cải cách chính trị đất nước ta nhất thiết phải tiến hành như đang bàn tới ở đây trước hết là sự nghiệp của toàn dân, để nhân dân tự vươn lên thay đổi chính mình. Đây không phải chỉ đơn thuần là một cuộc cải cách chính trị do đảng đề xướng và vận động nhân dân thực hiện! Hoàn toàn không phải thế! Mà trước hết nó phải là cuộc cải cách của chính nhân dân thực hiên, cho mình và vì mình, để thay đổi chính mình!  Sẽ không phải là quá lời nếu cho rằng: Nhân dân ta cần thông qua cuộc cải cách chính trị quá muộn mằn này để đổi đời chính mình thành người trưởng thành!

Là lực lượng chính trị lãnh đạo, đảng cần đề xướng cuộc cải cách vỹ đại này, đánh thức nhân dân tự đứng lên thực hiện. Làm như thế chính là lãnh đạo! Lý do cơ bản: Nhân dân ta phải tự giác ngộ đứng lên giải phóng chính mình – nhiệm vụ khó nhất từ trước đến nay như tôi đã nêu ra trong kết luận của “Dòng đời” và của nhiều bài viết khác. Không ai có thể làm thay được cho nhân dân nhiệm vụ tự giải phóng mình như vậy! Thực tế 43 năm độc lập thống nhất vừa qua đã chứng minh thực tế này.

Tôi hoàn toàn tin rằng, nếu nhân dân giác ngộ được cuộc cải cách này là của chính mình, nhằm đổi đời chính mình, phải tự mình làm lấy, chắc chắn nhân dân sẽ thực hiện thắng lợi, sẽ không thể có đất cho bạo loạn hay lất đổ len chân vào! Thực tiễn của Cách mạng Tháng Tám vả 4 cuộc kháng chiến có nhiều ví dụ chứng minh nhân dân biết bảo vệ sự nghiệp của mình. Xin lưu ý kỹ điều này.

Xin nhớ lại cho, trong Cách mạng Tháng Tám tôi được chứng kiến sự giác ngộ vô song này của nhân dân. Cả nước lúc bấy giờ mới có 5000 đảng viên. Hồi ấy nhiều huyện và xã thậm chí không có 1 đảng viên nào, nhân dân giác ngộ vai trò của mình, tiếp nhận đường lối chính sách của đảng, tự đứng lên làm chủ, tự giải quyết những công việc của mình và địa phương mình: Giành chính quyền, đưa đất nước vào cuộc kháng chiến lịch sử.

Huyện Yên Bình – nơi gia đình tôi sống thời kháng chiến chống Pháp, phần lớn địa phương của huyện là công giáo – bố tôi cho biết một thời gian dài lúc đầu toàn huyện và cơ quan huyện ủy chỉ có vài đảng viên, nhưng hồi ấy không công khai. Xã chúng tôi sống không thấy có một đảng viên nào, trường Trung học ở Yên Bái thời tôi học cũng không có đảng viên nào… Song đâu đâu cũng thống nhất một chí hướng và hành động tất cả cho kháng chiến thắng lợi! Vì nhân dân giác ngộ được và coi sự nghiệp kháng chiến cứu nước là của mình, nên tự thực hiện được như vậy!

Phải nói ngay tại đây, nội dung của lãnh đạo rõ ràng là giúp dân tự giác ngộ đứng lên làm những việc của dân như vậy, chứ không phải “dắt” dân hay “áp đặt” lên dân! Sẽ chẳng còn mấy ý nghĩa, và chắc gì kháng chiến thắng lợi được như vậy, nếu như nhân dân chỉ vì theo đảng, hay chỉ vi bị đảng ốp mà chiến đấu!?

Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã kể cho chúng tôi nghe những kỷ niệm riêng của mình trong kháng chiến chống Mỹ: Có lúc cơ sở vùng bị càn quét trắng xóa không còn đảng viên nào, bản thân ông cũng được dân giấu kín sang vùng khác, song sức kháng chiến tại chỗ của nhân dân tự giác ngộ tự nó phục hồi dần… Bài học này hôm nay quý giá vô cùng: Sự giác ngộ của dân.

Nói cuộc cải cách phải tiến hành hôm nay là sự nghiệp của dân với tinh thần nêu trên là đúng nhưng hoàn toàn chưa đủ! Nhân dân hôm nay còn phải được học và giác ngộ từ học, từ đó mới có thể đứng lên tiến hành cải cách chính trị với nghĩa tự đổi đời chính mình thành người công dân tự do của đất nước tự do!

Vì vậy, tôi thực sự muốn nói: Đây phải là cuộc cải cách của học tập, dân phải học từ A đến Z để đứng lên tự thực hiện![13]

Trước hết phải học để tự giải phóng chính mình khỏi tàn dư văn hóa cũ và lối tư duy cũ – kể cả lối tư duy nằm bên trong cái bóng của văn hóa Trung Quốc. Phải học vì 43 năm qua tuyên giáo và lý luận của đảng đã mang vào tâm thức và ý thức của dân – ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường – nhiều điều sai trái. Phải học, vì để trở thành người công dân tự do của đất nước đã đành! Mà còn phải học, bởi vì là công dân tự do cũng có nghĩa là tự giác nhận về mình trách nhiệm và nghĩa vụ cao nhất của mình đối với dân tộc, đối với đất nước – không học, sao làm được! Phải học, còn vì đất nước có những đòi hỏi phát triển hoàn toàn mới, trong khi đó thế giới hôm nay đặt ra cho mỗi công dân và đất nước ta những cơ hội và thách thức chưa từng có! Phải học, vì để sống, mỗi chúng ta hôm nay còn phải trở thành công dân của thế giới.

Một cuộc cải cách của học tập, do người dân giác ngộ thực hiện, tự nó đã loại bỏ đáng kể mọi nguy cơ lợi dụng cải cách theo đuổi những âm mưu bạo loạn, lật đổ! Cũng như trong làm Cách mạng Tháng Tám và trong kháng chiến cứu nước vậy, dân đứng lên và có dân – đất nước sẽ có tất cả. Một đảng lãnh đạo làm được như thế cũng sẽ có tất cả cho đất nước! Vậy sợ dân để trì hoãn cải cách, trì hoãn việc thực hiện các quyền tự do – dân chủ của dân, động cơ tư tưởng sâu xa bên trong là vẫn muốn tiếp tục thống trị một nhân dân được bao bọc trong ngu dốt mà thôi!

Thách đố thực sự đối với ĐCSVN hôm nay, không phải là nguy cơ cải cách có thể dẫn tới bạo loạn sụp đổ! Thách đố này chỉ xảy ra nếu đảng không chịu khắc phục những yếu kém của chính mình. Thách đố thực sự là ĐCSVN hôm nay có đủ tầm nhìn để nhận ra tầm vóc một cuộc cải cách chính trị như thế hay không?, có tâm vì nước, có ý chí thực hiện cải cách với quan điểm đây là cuộc cải cách của nhân dân để nhân dân tự đổi đời chính mình và thay đổi đất nước hay không?! Thách đố khó nhất: ĐCSVN hôm nay có dám tự cải tạo chính mình để chấp nhận nhiệm vụ chiến đấu mới này hay không!?

Hy vọng, tôi đã trình bầy được đôi điều vì sao ĐCSVN hôm nay phải thay đổi chính mình, thay đổi những gì, và thay đổi như thế nào.

 

VI. Nhìn nhận Trung Quốc hôm nay như thế nào?

            Cả thế giới đang tự hỏi mình như thế, không phải chỉ có mỗi Việt Nam chúng ta.

            Đã có một câu trả lời được khá nhiều người chấp nhận: Thế kỷ 21 là thế kỷ Trung Quốc. Song nội dung thế nào là thế kỷ Trung Quốc (the Chinese century), lại tranh cãi nổ trời.

            Trong bài viết ngày 06-11-2017 nhân dịp các cuộc tranh luận ở nước ta về kỷ niệm 100 năm Cách mạng Tháng Mười, tôi đi tới kết luận: Sau thế kỷ đỏ, sẽ là thế kỷ xám![14] hàm ý đó là một thế kỷ chịu ảnh hưởng rõ nét của đế chế Trung Hoa thời kỳ phục hưng, đại thể có quy mô tầm vóc thế giới như Cách mạng Tháng Mười đã ảnh hưởng đến thế kỷ 20 – song không phải với sự hứa hẹn “một mùa xuân nhân loại”, mà một thứ gì đó rất Trung Quốc!.. Tuy nhiên, tôi thực sự vẫn chưa xác định rõ được, đấy sẽ là ảnh hưởng của một Trung Quốc nào… Trung Quốc của Khổng tử chăng? Hay một Trung Quốc như Lỗ Tấn nhìn nhận? Một Trung Quốc trong “Death by China” của Navarro? Hay là một Trung Quốc với mọi sắc thái khác nhau xuyên suốt và liên tục từ thời Mao Trạch Đông cho đến hôm nay – bao gồm cả những gì Việt Nam đã nếm trải trong 6 thập kỷ vừa qua! Một thế kỷ xám dưới ảnh hưởng của một Trung Quốc gồm tất cả những gì đã làm nên nó trong lịch sử cho đến hôm nay?..

Thực sự tôi muốn từ góc độ lịch sử và văn hóa tìm hiểu xem nội dung ảnh hưởng Trung Quốc này sẽ đem đến cho thế giới những gì!

Tôi gọi thế kỷ Trung Quốcthế kỷ xám hàm ý: Đế chế trên đường phục hưng này đang gây ra một tác động kép đối với thế giới còn lại.

Đấy là:  (a) một đế chế - như lịch sử các đế chế ra đời trên thế giới đã chứng kiến, bao giờ cũng tác động mạnh mẽ trước hết đến ngoại vi chung quanh nó, rồi lan rộng ra trong thế giới còn lại; và (b) đế chế phục hưng này là Trung Hoa, nên tác động của nó gây ra cho cả thế giới còn lại sẽ là “tác động theo kiểu Trung Hoa”.

            Đã xuất hiện nỗi lo ngại của một bộ phận quan trọng trong chính giới ở Mỹ và các nước phương Tây, coi hiện tượng Trung Quốc là một “quái vật Frankenstein” (bắt đầu gọi như vậy từ Nixon khi về hưu). Frankenstein là một quái vật người do chính con người tạo ra, song hệ quả cuối cùng là con người hoàn toàn không điều khiển được nó và chịu bất lực trước nó! Cùng dòng suy nghĩ này nhưng ôn hòa hơn thì gọi Trung Quốc hôm nay vẫn là một quyển sách đóng (a closed book) – với nghĩa còn là một bí mật, chưa thể hiểu được.

            Vân vân…

             Sự thật là Trung Quốc vẫn là một quyển sách đóng, mặc dù trên những phương diện nào đó đã hé lộ nhiều nét cơ bản từ cái gốc văn hóa Trung Quốc.  Phần cao điểm – và nhất là phần kết của cuốn sách vẫn còn đóng kín – với nghĩa nó chưa được viết ra, vì còn tùy thuộc rất nhiều vào diễn tiến mọi vận động khác nhau của thế giới hôm nay. Đơn giản vì trong lịch sử cho đến nay chưa từng có một đế quốc nào có thể một mình chi phối thế giới. Hơn  thế nữa, Trung Quốc hôm nay bước vào trung tâm vũ đài thế giới với tính cách là kẻ đến muộn nhất!

            Trước khi bàn tiếp, xin điểm lại một vài hiện tượng (facts).

            Trong khoảng 4 thập kỷ, kể từ khi bắt đầu đổi mới 1978 đến đại hội 19  ĐCSTQ (2018), GDP danh nghĩa tính theo đầu người của Trung Quốc từ 400 USD tăng lên gần 10.088 USD, nghĩa là tăng khoảng 25 lần cho một nền kinh tế hiện nay có 1,3 tỷ dân – (GDP pc của TQ hiện nay gấp 4 lần của VN)[15]. Lần đầu tiên trên thế giới có một hiện tượng thần kỳ như vậy – trong khi đó đế quốc Mỹ đi vào giai đoạn thoái trào. Sẽ là một ngộ nhận vô cùng nguy hiểm nếu hiểu sự thần kỳ này như một thành tựu của chủ nghĩa xã hội dù bất kỳ loại gì, hay là một thắng lợi của chủ nghĩa Marx như đang được giảng giải ở Trung Quốc, dù rằng TBT Tập Cận Bình  tại đại hội 19 đã gọi đấy là chủ nghĩa Marx Trung Quốc hóa và hiện đại hóa.[16]

Vượt lên thời Mao một bước, ĐCSTQ hôm nay giương cao ngọn cờ tư tưởng Tập Cận Bình (chủ nghĩa dân tộc của đế chế Trung Hoa phục hưng), chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc thời đại mới (cũng có chỗ nói là kỷ nguyên mới) và chủ nghĩa Marx Trung Quốc hóa - hiện đại hóa như một bửu bối thiêng liêng của chế độ toàn trị Trung Quốc, nhằm tập hợp 1,3 tỷ dân Trung Quốc thành một khối sắt thép trong mặt trận thống nhất cho mục tiêu giấc mộng Trung Hoa, bản thân Tập trở thành lãnh tụ suốt đời cho thực hiện sự nghiệp này. Có thể nói đây là cao điểm mới chưa từng có của chủ nghĩa dân túy trong lịch sử nước CHNDTH, nó đi xa hơn rất nhiều so với thời kỳ cách mạng văn hóa, lại diễn ra cùng vào lúc chủ nghĩa dân túy đang rộ lên ở phương Tây và nhiều nơi khác trên thế giới. Sự hỗn loạn trên thế giới như được tiếp sức, càng được Trung Quốc khai thác triệt để!

             Tại đại hội 19 của ĐCSTQ, Trung Quốc trịnh trọng tuyên bố chính thức bước vào trung tâm của vũ đài thế giới, coi đối thủ số 1 là Mỹ, với chương trình sẽ vượt Mỹ trong thập kỷ 2030s, sẽ có lực lượng quân sự mạnh nhất thế giới, và sẽ trở thành người dẫn dắt thế giới. Đấy cũng là toàn bộ nội dung giấc mộng Trung Hoa.

Giới chuyên gia Mỹ thừa nhận: Hơn hẳn so với thời Mao, về đối nội hiện nay Trung Quốc đã sẵn sàng cho tình hình chiến tranh, thể hiện rõ nhất trong những đe dọa sẵn sàng sáp nhập Đài Loan. Hội đồng chiến  lược an ninh quốc gia Mỹ nhận định Trung Quốc trực tiếp thách thức Mỹ, quyết thay đổi trật tự thế giới hiện có theo cách có lợi cho Trung Quốc. 

Xin đặt sang một bên những đánh giá về đạo lý của quá trình phát triển này và nhiều vấn đề tồn tại bên trong của nó, để thấy rõ một nét cơ bản: Đội ngũ tinh hoa của truyền thống đế chế Trung Hoa, hiện thân trong hàng ngũ lãnh đạo và chính giới của nó, sau những thử nghiệm thất bại của Mao, đã xác định sự rối loạn của thế giới bước vào trật tự quốc tế mới hôm nay trong đà đi xuống của Mỹ là cơ hội có một không hai quyết phải nắm lấy, để dẫn Trung Quốc tới mục tiêu phục hưng đế chế của mình.

Bức tranh siêu cường trên thế giới hiện này là: Trung Quốc là đế chế trên đường phục hưng đang lên, đế chế Nga của Putin đang tìm cách phục hồi nhưng chật vật, đế chế Mỹ đang trên đà đi xuống.

Nhìn lại, đế chế Trung Hoa trên đường phục hưng đã bắt đầu con đường đi lên của nó với cột mốc đầu tiên là mèo trắng hoặc mèo đen, miễn là bắt được chuột (Đặng Tiểu Bình), nhất quán qua những bước đi khác nhau, hiện nay đang đứng ở cột mốc hôm nay là chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc kỷ nguyên mới (ĐH 19 của ĐCSTQ). Gọi cột mốc này là chủ nghĩa tư bản đặc sắc Trung Quốc cũng là cùng một nghĩa (Martin Jacques[17])! Trên con đường này cho đến hôm nay, Trung Quốc trên đường phục hưng không diễn ra như Mỹ và thế giới phương Tây ảo tưởng: càng phát triển, Trung Quốc sẽ đi vào con đường càng dân chủ hơn. Sự thật đang diễn hoàn toàn ngược lại: Trung quốc càng phát triển, thế giới càng Trung Quốc hơn, đang tạo ra một trật tự quốc tế mới theo hình ảnh của nó (Martin Jacques)[18].

Với nền kinh tế có quy mô lớn thứ 2 thế giới, và là một thị trường mà các nền kinh tế lớn trên thế giới không thể bỏ qua, quyền lực mềm của Trung quốc đã luồn sâu đáng kể tại không ít quốc gia trên thế giới. Đồng thời chủ nghĩa thực dân mới của Trung Quốc đã bỏ xa chủ nghĩa thực dân mới của các nước tư bản thời sau chiến tranh thế giới II. Nhiều thể chế và định chế là rường cột làm nên trật tự kinh tế và chính trị hiện hành của thế giới đã và đang bị Trung Quốc và phương thức phát triển của nó làm méo mó hoặc bị lũng đoạn đáng kể. Chiến lược “một vành đai một con đường” được xem như một đòn bẩy kinh tế phục vụ việc mở rộng phạm vi ảnh hưởng của đế chế Trung Hoa, Việt Nam được coi là một trong những cột mốc quan trọng.

Trung Quốc đã hoàn thành hệ thống những căn cứ quân sự xây trên các đảo lấn chiếm ở Biển Đông. Qua việc khống chế vùng này bằng sự có mặt thường trực và ngày càng gia tăng về quân sự, giới quân sự Mỹ và NATO đánh giá: về cơ bản Trung Quốc đã thực hiện được trên thực tế (de facto) việc chiếm Biển Đông. Trung Quốc đã thiết lập vùng cấm bay trên biển Hoa Đông, thuê được căn cứ quân sự ở Djibouti (châu Phi), đang tìm chỗ đứng trên bờ biển Pakistan.

Trong phạm vi nhất định và trên những vấn đề có thể, Trung Quốc ủng hộ nỗ lực của Nga trong việc hình thành một liên minh Nga - Thổ - Iran cùng với một số lực lượng hồi giáo nổi dậy (được Thổ và Iran đỡ đầu) tại Trung Đông, dưới dạng như một trục chống Mỹ và những đồng minh các loại của Mỹ ở khu vực này. Hiện nay Trung Quốc đang xúc tiến việc hợp tác với Nga trong đầu tư vào Syrie để củng cố chính quyền Assad; đang triển khai mạnh mẽ đại chiến lược đi vào Trung Đông, đồng thời nhằm vào nguồn tài nguyên dầu khí khổng lồ của vùng này. Từ khi Trump lên cầm quyền, cùng với tác động của Brexit (Anh), Trung Quốc đảy mạnh khai thác sự rạn nứt quan hệ mọi mặt giữa Mỹ và các đồng minh Tây Âu.

Mỹ cũng nhìn nhận Trung Quốc là đối thủ nguy hiểm nhất của mình, đã lấn sân đáng kể ảnh hưởng của Mỹ trên cả hai mặt trận kinh tế và chính trị, đang ngày càng trực tiếp đe dọa và thách thức Mỹ. Từ thời Obama đã có nhiều nỗ lực lớn nhằm xoay chuyển xu thế này (G2, TPP, trục xoay CA-TBD…), nhưng thất bại… Trump lên, muốn thay đổi tình hình này bằng thứ ngoại giao “bốp chát, mặc cả, và mua chịu…” (bình luận của báo chí Mỹ chống Trump), ngay giới báo chí Mỹ cũng bình luận: Cho đến nay Trump nói nhiều, nhưng chưa làm được bao nhiêu, thậm chí có lúc nói một đằng làm một nẻo!.. Trump đã từng chủ trương đi với Nga để tập trung mũi nhọn vào Trung Quốc, song quan hệ Nga – Mỹ (trong vấn đề Syrie) và quan hệ Nga – NATO (trong vấn đề Krim – Ucraina) có quá nhiều trở lực lớn, mặt khác EU không thể bỏ được thị trường Trung Quốc và thị trường Nga. Tất cả đang nói lên sự lúng túng của Mỹ và thế giới phương Tây trong vấn đề Trung Quốc. Tuy nhiên, lúc này lúc khác, người ta còn thấy một Trump của hòa bình dựa trên sức mạnh (peace through strength), ví dụ Trump chủ trương cùng với Thụy Điển, Na Uy và một vài quốc gia châu Âu khác thành một hợp tác (dưới dạng một liên minh) bỏ NATO sang một bên để đối phó với Nga, lý do là việc đạt được một quyết định chung của NATO hiện nay cho bất kể vấn đề gì đều dây dưa kéo dài và khó – vì EU không muốn bỏ làm ăn với Nga. Với Trung Quốc, một mặt Trump đang dứt khoát đòi Kim Chung Un loại hẳn vũ khí A khỏi bán đảo Triều Tiên, đồng thời đang tăng cường FONOPS trên Bển Đông, bãi việc mời TQ tham gia tập trận chung trên biển theo RIMPAC.

Trung Quốc gặp bất ngờ trước những diễn biến trên bán đảo Bắc Triều Tiên, đang tìm mọi cách đối phó với mọi khả năng có thể xảy ra, trong đó có việc tăng thêm áp lực của Trung Quốc trên Biển Đông như đang diễn ra – tới mức giới nghiên cứu và quân sự Mỹ đã phát biểu công khai: Quyền lợi của Mỹ tại khu vực (liên quan cả đến tuyến vận tải biển Malacca) bị uy hiếp, báo động thượng viện Mỹ vấn đề Biển Đông chỉ có thể giải quyết được bằng chiến tranh (Ian Ralby, Philip Davidson, Orania Mastro, Peter Navarro, Robert D. Klapan, RAND-Corporation…). Hiện nay cục diện thế giới căng thẳng hơn thời kỳ chiến tranh lạnh I. Đã có tiếng nói cảnh báo từ NATO: Mỹ không nên vì vấn đề vũ khí hạt nhân của Bắc Triều Tiên mà hy sinh Biển Đông, vì sẽ là sai lầm không cứu vãn được!

Trước tình hình Trump tuyên bố sẵn sàng chiến tranh thương mại chống Trung Quốc, nhưng đồng thời để ngỏ cửa cho đàm phán giải quyết vấn đề - có ý kiến nói trong đàm phán này Trump đang thua. Trung Quốc đáp lại trên 3 phương diện: (1) sẵn sàng đàm phán, (2) sẽ đối đầu quyết liệt trong chiến tranh thương mại nếu xảy ra, (3)gây sức ép phụ trợ từ mọi vấn đề có thể nhằm vào Mỹ trên những vấn đề khác, mặt trận khác – bao gồm cả huy động sự tham gia / hợp tác có thể từ các đồng minh của Trung Quốc.

Nhìn chung có thể dự báo: Về cơ bản Trung Quốc có thể thực hiện được ở mức độ đáng kể những mục tiêu chiến lược đã đề ra cho tới 2030 – 2035 ngoại trừ trường hợp bất khả kháng như nổ ra chiến tranh thế giới III hoặc chiến tranh lớn trong khu vực. Trong khung thời gian này, nền kinh tế Trung Quốc có quy mô vượt Mỹ là hoàn toàn có thể, khoảng cách phát triển so với Mỹ thu hẹp nhanh, tuy nhiên Trung Quốc không thể trở thành kẻ dẫn dắt thế giới – trước hết vì bản chất Trung quốc không phù hợp với khái niệm win-win, văn hóa Trung Quốc có quá nhiều khác biệt so với xu thế phát triển của văn minh nhân loại, một nguyên nhân cơ bản đã từng dẫn tới Trung Quốc đánh mất cả một thế kỷ kể từ cuộc chiến nha phiến I (1839 – 1842) cho đến khi CHDCNDTH ra đời 1949.

TQ có ưu thế lớn về sức mạnh uy hiếp tại chỗ, song về toàn cục vẫn yếu hơn Mỹ, đang ra sức tận dụng thời cuộc hiện nay cho tăng cường thế chiến lược tại Biển Đông – rất nhức nhối cho các nước láng giềng, tăng cường tạo nên “phe trục” đối phó với Mỹ, song vẫn tìm cách tránh đối đầu tực tiếp với Mỹ. Nội trị TQ vẫn còn nhiều vấn đề lớn nan giải, nên càng phải siết và đồng thời hướng mọi mâu thuẫn ra bên ngoài dưới ngọn cờ của chủ nghĩa dân tộc Trung Quốc và giấc mộng Trung Hoa.

Xin dành cho việc phân tích sâu tình hình và hệ quả mối quan hệ Trung Quốc – Mỹ và quan hệ bộ 3 Trung – Mỹ - Nga trên đấu trường quốc tế hiện nay cho một nơi khác (không thuộc phạm vi cuốn sách nhỏ này). Chỉ xin lưu ý tại đây: quan hệ song phương Việt – Trung không là phải là mối quan hệ song phương đơn thuần của hai nước; nhất là vấn đề Việt Nam – bao gồm cả vấn đề Biển Đông – luôn luôn là một thành phần hữu cơ như một vật  để đổi chác trong trò chơi quyền lực hoặc là giữa quan hệ tay đôi Trung Quốc – Mỹ, hoặc là giữa bộ ba Trung – Mỹ -  Nga.

Không thể nói khác: Từ nay đến một vài thập kỷ tới, Trung Quốc Tập Cận Bình quyết nắm lấy cục diện thế giới hiện tại như một cơ hội quyết định, dốc toàn lực cho sự phục hưng đế chế Trung Hoa với lọn nghĩa của nó: nghĩa là rất mác-xít đặc sắc TQ! Mục tiêu này là lẽ tồn tại của nó, song cũng chính mục tiêu  này ngày nay thách thức cả thế giới và trở thành vấn đề của cả thế giới.

Thiết nghĩ, mọi nhận thức về Trung Quốc hôm nay theo cảm súc, dù là bài hoa, hay khiếp nhược, hay thần phục chạy theo, cam chịu khuất phục.., đều không thể giúp ích gì. Đơn giản vì trong vòm trời văn hóa đế chế Trung Hoa không có khái niệm nước láng giềng hữu nghị, bình đẳng.., mà chỉ có nước triều cống, nước chư hầu, hôm nay có thể là nước triều cống thời hiện đại!..[19] Người Việt chúng ta phải bổ sung thêm: Trong vòm trời văn hóa đế chế Trung Hoa còn có: Dạy cho bài học! Và liệu hồn!..

Có thể nhận xét ngay tại đây: Về đối ngoại, trên thế giới hôm nay Việt Nam hầu như chỉ có những vấn đề nóng bỏng, nhiều mặt đã ở mức đối kháng – với quốc gia duy nhất là Trung Quốc. Tình hình phức tạp thêm bội phần vì Biển Đông đang trở thành nơi cọ sát trực tiếp Mỹ - Trung tiềm tàng mọi khả năng đụng độ lớn.

Bối cảnh trong / ngoài Việt Nam hôm nay phải đương đầu trong quan hệ Việt – Trung phức tạp hơn rất nhiều so với thời kỳ phải tiến hành kháng chiến chống Pháp và kháng chiến chống Mỹ, bởi các lẽ:

(1)            hiện nay Việt Nam không có đồng minh chiến lược với đúng nghĩa; VN có khả năng rất lớn tạo ra đồng minh chiến lược, nhưng lại không có một đường lối đối nội và đối ngoại đúng đắn trên cơ sở sức mạnh dân tộc, dân chủ, đoàn kết hòa hợp dân tộc để phát huy; do đó không thoát được thân phận quốc gia leo dây; trong khi đó áp lực trực tiếp tại chỗ của Trung Quốc là toàn diện và rất lớn, hầu như tập trung trước hết vào Việt Nam – vì (a)vị trí chiến lược của VN, và (b)có thể khai thác triệt để vấn đề ý thức hệ của ĐCSVN, TQ xem VN là đối tượng dễ nắn gân nhất;

(2)            vấn đề Việt Nam xuất hiện trong mọi tranh giành của trò chơi quyền lực giữa tay đôi Mỹ-Trung hoặc tay ba Mỹ-Trung-Nga – nguy cơ trở thành vật đổi chác là thường trực; trong khi đó hầu như các nền kinh tế lớn trên thế giới rất cần thị trường Trung Quốc;

(3)            khó khăn lớn nhất: Việt Nam đang thiếu một nền nội trị mạnh toàn diện trên các phương diện kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội và an ninh quốc phòng để có cái bất biến ứng phó được cái vạn biến; lúc này cộng đồng dân tộc đang bị phân tán. Trong khi đó sự can thiệp của quyền lực mềm TQ và sự có mặt của TQ trong mọi lĩnh vực cuộc sống đất nước ta đã đạt tới mức độ nguy hiểm; sự cấm kỵ của chế độ chính trị - nhất là trên phương diện truyền thông – tránh né hoặc không cho dư luận đụng chạm tới vấn đề nhạy cảm này càng làm gia tăng tính chất nguy hiểm của vấn đề TQ đối với đất nước ta.

Dù bất tương xứng như thế nào trong so sánh lực lượng giữa ta và Trung Quốc, vấn đề của nước ta không phải là tỷ lệ quá nhỏ của ta so với Trung Quốc, mà trước hết và nguy hiểm nhất của hôm nay là chưa có một đội ngũ tiên phong nhìn thấu cục diện trật tự quốc tế mới và có bản lĩnh xứng tầm dẫn dắt đất nước!

Hiển nhiên, đất nước đang cần một cuộc cải cách chính trị vỹ đại để    thoát khỏi tình hình nguy hiểm nêu trên.

Trong lịch sử, chưa một lần Việt Nam chủ động đối đầu với Trung Quốc, hôm nay càng như thế. Trước sau vẫn tìm cách là láng giềng được tôn trọng của Trung Quốc, vì hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển. Song trong lịch sử Việt Nam đã nhiều lần phải đối mặt với xâm lăng và lấn hiếp của Trung Quốc – và chưa bao giờ chịu khuất phục, cho dù luôn luôn phải rơi vào cảnh châu chấu đá voi!

Cũng trong lịch sử, Việt Nam không dưới một lần phải quyết đối mặt trước bạo cường Trung Quốc, với đại nghĩa làm nên ý chí một lòng của dân tộc – lần đầu tiên là Diên Hồng, và rõ ràng hòa bình – hữu nghị chỉ đến với Diên Hồng! Đại nghĩa ấy hôm nay là Việt Nam của một dân tộc tự do, cùng dấn thân với cả thế giới tiến bộ cho hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển.

Có đại nghĩa như vậy, chúng ta sẽ có quyết sách mà đất nước đòi hỏi, sẽ có hữu nghị thật, hợp tác thật với Trung Quốc -  hoặc là Trung Quốc sẽ chịu chấp nhận một Việt Nam hữu nghị thật, hợp tác thật như thế.

Bối cảnh đất nước hôm nay đặt ĐCSVN đứng trước thách thức lớn nhất kể từ khi thành lập: chịu trách nhiệm trước đất nước đứng ra tập hợp trí tuệ, tâm huyết và ý chí của cả nước, đoàn kết toàn dân tộc mở ra con đường đất nước phải đi trong cục diện trật tự quốc tế mới hôm nay.

ĐCSVN sẽ đáp ứng được thách thức này?

Nếu ĐCSVN không đáp ứng được thách thức này, đất nước sẽ rơi sâu thêm nữa vào con đường dẫn tới thân phận Bắc thuộc lần thứ hai, như lời cảnh báo năm xưa của cố Bộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch về hội nghị Thành Đô. Điều chắc chắn nhân dân cả nước sẽ không thể khoanh tay chịu chết chấp nhận!

            Thiết nghĩ, sự phát triển của Trung Quốc như trình bầy trên đây, khách quan đặt ra thách thức quyết liệt: Từng người dân Việt Nam yêu nước lúc này hơn bao giờ hết, cần tự ý thức đầy đủ thực trạng trong / ngoài đất nước đang phải đối mặt, quyết cùng nhau một ý chí, tự nắm lấy vận mệnh của chính mình, để tự giác cùng nhau nắm lấy vận mệnh quốc gia, quyết đổi đời chính mình và cùng nhau đổi đời đất nước. Đấy là con đường sống của mỗi chúng ta và của cả nước.

            Mong sẽ có dịp được bàn sâu về đối sách của nước ta đối với vấn đề TQ.

Song tại đây, để kết thúc phần này, xin kiến nghị một đối sách cần thực hiện ngay, càng để chậm càng nguy hiểm:

            Cả nước nên thực hiện ngay sự công khai minh bạch của thiện chí (transparency of good will) trong mọi quan hệ với Trung Quốc.

            Xin diễn giải nôm na thế này: Để gìn giữ môi trường trong sạch cho phát triển lành mạnh và bền vững mọi quan hệ hữu nghị / hợp tác của nước ta với Trung Quốc, hàng ngày phải chịu khó nhặt rác, đừng để cho từng cọng rác dù nhỏ nhất trong quan hệ 2 nước tích tụ ngày qua ngày thành đống rác thối đến một thời gian nào đó sẽ đủ lớn nhấn chìm quan hệ 2 nước, hoặc thậm chí có thể gây động loạn và dẫn đến chiến tranh.

Cả nước trong cuộc sống hàng ngày - ở phạm vi quốc gia hay từng địa phương, từng ngành, ở phạm vi tổ chức hay cá nhân, kể từ cấp cao nhất đến người dân thường… - tất cả cần nỗ lực thực hiện sự công khai minh bạch của thiện chí như một trong những quốc sách hàng đầu để chủ động xây dựng quan hệ Việt – Trung đúng với nguyên vọng chân chính của nhân dân 2 nước. Hội Hữu nghị Việt – Trung và mọi đoàn thể xã hội trong xã hội dân sự cần thúc đẩy và hậu thuẫn nhân dân cả nước thực hiện quốc sách này.

Từng cái sai dù nhỏ nhất xảy ra trong quan hệ 2 nước, nên công khai hóa và công bố rộng rãi tùy từng sự việc – song không phải để “đấu” nhau mà là để nhắc nhở mỗi bên liên quan phải khắc phục, hoặc làm đúng, để cả nước cả thông tin, học tập và cùng nhau rút kinh nghiệm, làm đúng… Ví dụ: Khách du lịch TQ mặc áo phông có bản đồ lưỡi bò ở Biển Đông, phía người Việt Nam đứng tên giúp người TQ mua bất động sản là bât hợp pháp .., mọi việc không đúng như thế cần nhắc nhở trực tiếp đương sự, đồng thời công khai minh bạch trên báo chí cả nước cùng biết và rút kinh nghiệm… Khi phải đấu nhau thì cũng xó lý lẽ, số liệu, dẫn chứng đàng hoàng trước dư luận thế giới. Tầu chiến hay tầu đánh cá TQ đuổi bắt hay đánh phá tầu đánh cá của ta cũng nên gọi rõ ràng và liệt kê công khai trên báo chí tại địa phương, không nên nói theo kiểu mập mờ “tầu lạ” chỉ đổ thêm dầu vào lửa. Trong các công trình đầu tư có TQ tham gia, nếu có vấn đề gì cũng nên công khai minh bạch như thế để các bên liên quan tìm giải pháp khắc phục… Ngay cả trong những mối quan hệ song phương Việt – Trung có liên quan đến an ninh quốc phòng có rất nhiều vấn đề hoàn toàn có thể thực hiện tối đa sự công khai minh bạch của thiện chí như vậy, để nhắc nhở lẫn nhau ai sai ai đúng, để cả hai bên cùng tìm giải pháp khắc phục. Nên coi sự công khai minh bạch của thiện chí như thế là một thế mạnh của ta – bởi vì nước ta không bao giờ muốn gây sự thù địch với TQ. Thực hiện sự công khai minh bạch của thiện chí như thế ở phạm vi nhà nước, phạm vi cả nước và phạm vi nhân dân, phía ta sẽ trưởng thành rất nhiều và càng giương cao được ngọn cờ chính nghĩa, củng cố vị thế của đất nước trong xử lý những vấn đề của quan hệ song phương Việt - Trung.

Rồi đây, nên áp dụng công khai minh bạch của thiện chí trong quan hệ với mọi quốc gia khác, để dần dần hình thành nên một nền ngoại giao mới của nước Việt Nam độc lập thống nhất trong trật tự quốc tế mới hôm nay.

 

*



[1] Tham khảo: Nguyễn Trung, “Đại hội XII, một thất bại chung của Việt Nam!

http://www.viet-studies.net/NguyenTrung/NguyenTrung_DaiHoiThatBai.htm

 

[2] Tham khảo:

 (1) Nguyễn Trung, “Thế giới đã sang trang - và những vấn đề đặt ra cho Việt Nam http://www.viet-studies.net/NguyenTrung/NguyenTrung_TheGioiDaSangTrang.htm

 (2) Nguyễn Trung,  “Sau thế kỷ “đỏ” sẽ là thế kỷ “xám”?http://www.viet-studies.net/NguyenTrung/NguyenTrung_TheKyDoXam.html

[4] Tham khảo: Nguyễn Trung, “Chúng ta lựa chọn gì cho tổ quốc” 20-08-2014, viết về Đại hội XII của ĐCSVN, http://viet-studies.net/NguyenTrung/NguyenTrung_Lu

[5] Tham khảo: GS. Trần văn Thọ, “3 đặc khu cần trả lời 3 câu hỏi”

http://www.viet-studies.net/kinhte/TranVanTho_BaDacKhu.html

[6] Tham khảo: Nguyễn Quang Dy, “Câu chuyện đặc khu và hơn thế nữa”

http://www.viet-studies.net/kinhte/NQuangDy_DacKhuVaHonThe.html

[7] Xin đừng quên rằng tại các nước phát triển luật pháp được thực hiện nghiêm minh và bất khả kháng trong mọi China-towns. Trong khi đó dù nước ta chưa có China-town nào, nhưng đã có nhiều khu kinh tế và khu nhà do người TQ vận hành mà quyền lực hành chính của ta không kiểm soát được.

[8] Tham khảo: Nguyễn Trung, “Cùng nhau mở con đường cải cách, đưa đất nước vào thời kỳ phát triển mới -  Một kiến nghị tâm huyết”   http://www.viet-studies.net/NguyenTrung/NguyenTrung_KienNghiTamQuyet.html

 

[9] Sự vật nào bao giờ cũng là một tấm huy chương 2 mặt. Toàn cầu hóa kinh tế một mặt mang lại những lợi ích lớn cho một bộ phận dân cư nào đó, song đồng thời cũng có một bộ phận dân cư bị gạt ra ngoài lề vì không thích ứng kịp. Ví dụ: Người dân các nước phát triển được hưởng lợi lớn trong tiêu dùng các sản phẩm cùng chất lượng nhưng giá rẻ do nhập khẩu từ các nước đang phát triển, song đồng thời một bộ phân dân cư nhất định tại các nước phát triển phải thất nghiệp vì công nghiệp làm ra những sản phẩm có thể nhập khẩu với giá rẻ không còn tồn tại nữa. Hiện tượng “tấm huy chương hai mặt” như thế diễn ra trong mọi lĩnh vực của cuộc sống. Vì cậy, cách giải thích “những hiện tượng bất cập mới” là biểu hiện tha hóa của chủ nghĩa tư bản để biện minh cho tính đúng đắn của chủ nghĩa xã hội như hiện nay vẫn đang giảng dậy ở nước ta là sai sự thật, với những hệ qủa nguy hiểm. Tuy nhiên, rất đáng tiếc là “những hiện tượng bất cập mới” lại là đất sống của chủ nghĩa dân túy mới.

[10] Tham khảo: Niall Ferguson, “The Great Degeneration: How Institutions Decay and Economies Die

 

[11] Đã trích dẫn: http://www.viet-studies.net/NguyenTrung/NguyenTrung_KienNghiTamQuyet.html

[12] Có câu hỏi đặt ra: Đảng nói phải kiên trì CNML là kiên trì hay trung thành với cái gì, so với Marx hay Lénin đã viết ra như thế nào? So với Tuyên bố của 71 ĐCS và CNQT tại Moscow 1957 sẽ ra sao?..  V… v… Tôi không tin rằng tuyên giáo có thể tìm ra được câu trả lời, hoặc trả lời những thứ không có so với những gì Marx hay Lénin đã viết ra. Vậy CNML ở đây như đảng và tuyên giáo của đảng đang nói ra phải chăng chỉ còn lại mỗi nội dung bảo vệ cái chính danh của đảng?

[13] Tham khảo: Nguyễn Trung, “Phải sống!” http://www.viet-studies.net/NguyenTrung/NguyenTrung_PhaiSong.html

[14] Tham khảo: Nguyễn Trung, “Sau thế kỷ đỏ, sẽ là thế kỷ xám”, 06-11-2017 viet-studies.net         http://www.viet-studies.net/NguyenTrung/NguyenTrung_TheKyDoXam.html

                         

[16] Nhân dịp 200 năm ngày sinh của Marx, Tập Cận Bình có diễn văn trọng thị,  khẳng định: Marx là nhà tư tưởng vỹ đại nhất thời hiện đại, chủ nghĩa Marx là công cụ để TQ đi đến thắng lợi trong tương lai, Trung Quốc sẽ là giám hộ và là học trò của Marx.. … (!), (song xưa nay TQ không bao giờ nói đến chủ nghĩa Lênin). Nhiều học giả thế giới cho rằng CNM là ngọn cờ và là chỗ dựa cho tư tưởng Tập Cận Bình, là công cụ cho quyền lực toàn trị của ĐCSTQ, trong khi đó xã hội TQ đang diễn ra không có gì giống với CNM như thể hiện trong Tuyên ngôn Cộng sản và trong “Das Kapital”, TQ đã hoàn thành kiểm soát Biển Đông về mọi mặt chỉ có chiến tranh mới có thể thay đổi được tình trạng này (hội thảo của đại học Berkley, Mỹ, 15-05-2018), vân vân… Nhân dịp này TQ tặng thành phố Trier – quê hương của Marx, một bức tượng đồng cao 4 m về Marx, gây tranh cãi phức tạp tại địa phương này. Riêng đối với Việt Nam, từ đầu năm 2018 đến nay sự có mặt về quân sự trên Biển Đông tăng lên ráo riết chưa từng có, người phát ngôn BNG VN đã phải lên tiếng phản đối. TQ đã hoàn tất và đặt tên lửa trên các căn cứ quân sự lập trên các đảo đã lấn chiếm, máy bay ném bom H-K6 đã diễn tập ở Hoàng Sa, đã uy hiếp và buộc Việt Nam phải rút các hợp đồng khai thác dầu ký  với Repsol, sắp tới có thể sẽ là với Rosneft (Nga), hợp đồng đã ký với Exxpl-Mobil (Mỹ) khai thác khu Cá Voi Xanh bị đẩy lùi tới 2019, tầu đánh cá TQ có lúc đã vào cách Đà Nẵng 30km… Sau sự kiện 2 chiến hạm Mỹ ngày 27-05-2018 vào sát Hoàng Sa cách 12 hải lý, TQ dọa sẽ giải mìn trên Biển Đông…

[17] Xem trong: Martin Jacques, “When China rules the World – the End of the Western Word and the Birth of a new Global Order”, 2nd Edition 2012 – 2014 – A penguin Book.

 

[18] Tìm xem: Martin Jacques, sách đã dẫn.

[19] Tìm xem Martin Jacques, sách đã dẫn,