Tôi làm “chính trị”


 Nhng k nim và trăn tr

 

Hồi ký 

Nguyễn Trung 

Phần một: Vào đời


3

Trở lại Đoạn trước

 Một kỷ niệm buồn:

Ít lâu sau khi ở Bonn về nước, một hôm anh Phan Văn Kim, nguyên là tham tán công sứ của Việt Nam ở CHDC Đức mời tôi đến nhà anh để cùng đi ăn phở với đại sứ Phạm Ngọc Thuần. Bộ 3 chúng tôi thời ở ĐSQ ta tại CHDCĐ vốn rất quý mến nhau, lúc đó tôi là tùy viên và là phiên dịch cho hai anh. Tôi không ngờ bữa được anh Phan Văn Kim mời đi ăn phở sáng hôm ấy ở phố Hàng bát đàn, lại là để chia tay anh Thuần và chị Cẩm (phu nhân của anh Thuần) rời quê hương mãi mãi để sang sống ở Pháp. Một cuộc chia tay đến dứt áo dứt lòng, nhưng vô cùng đơn sơ, chung quanh bàn phở! - vì hồi đó đất nước nghèo quá!.. Nhưng vô cùng nặng lòng giữa kẻ ở người đi! Tôi hiểu rất rõ gia đình và thân thế anh Phạm Ngọc Thuần, người đã dấn thân cho sự nghiệp cứu nước từ lúc còn là luật sư Gaston Phạm Ngọc Thuần ở Sài Gòn, sau đó là Phó chủ tịch Ủy ban kháng chiến hành chính Nam Bộ, chủ bút tờ báo tiếng Pháp trong kháng chiến chống Pháp "La Voix du Maquis (Tiếng nói Bưng Biền). Về danh nghĩa gia đình anh Thuần được nhà nước cho đi Pháp chữa bệnh, song tôi hiểu trong lòng là một sự chia tay đau đớn và đầy thất vọng đối với chế độ. Tôi biết, sau 30-04-1975 có một số nhân vật danh tiếng trong Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam cùng chung một tâm tư và cùng đi tới quyết định như của gia đình anh Phạm Ngọc Thuần!

Nghĩ đến, hôm nay vẫn tê tái trong lòng!..

 

…Đang làm chánh văn phòng Bộ Ngoại giao thời bận tối mắt, vì Mỹ ra sức bao vây cấm vận, và Trung Quốc triệt để khai thác vấn đề Campuchia chống nước ta, Bộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch giao nhiệm vụ cho tôi:

Tạm giao mọi việc cho người khác, đi Úc ngay thay đai sứ S; Bộ vừa mới nhận được điện của S xin thôi chức đại sứ và mong được về nước gấp. Tìm hiểu xem đây là việc gì, hoàn toàn chưa có tiền lệ. Cần làm mọi việc vận động Úc sớm đón Bộ trưởng để phá thế bao vây cấm vận hiện nay!

Hôm sau chào từ biệt Bộ trưởng để lên đường, tôi còn được dặn dò kỹ lưỡng, nếu là có bàn tay phá hoại thì là ai? Phải làm rõ nội hay ngoại?..

Đấy là câu chuyện khoảng đầu những năm 1980s.

Với cái vali toòng teng, mấy bộ quần áo có sẵn, hành lý của tôi nhẹ gọn. Tôi chọn đôi giầy đẹp nhất do Tiệp Khắc sản xuất, vẫn để dành, bây giờ mang ra dùng, vì với khí hậu ở nhà chẳng bao giờ phải dùng đến, hơn nữa từ năm 1980 trở đi tôi chuyên về công tác nghiên cứu kinh tế, ít khi phải tiếp xúc với cơ quan hay người nước ngoài…

Lững thững tại sân bay Sidney, đang tìm cách bay tiếp đến Canberra, tôi bỗng nhiên đi khập khiễng, cứ tưởng là bệnh thần kinh tọa của mình tái phát. Kiểm tra lại cái chân, thì ra một chiếc giầy đã bị gãy gót, vì cái đế plastic bị lão hóa. Khó xử! Nhưng tôi mặc kệ.

Đến Canberra, chiếc giầy còn lại gãy gót nốt. Cả hai mũi giầy của tôi trong mỗi bước đi cứ hếch lên như giầy của Charlie Chaplin! Tôi thấy vui vui, nới rộng thắt lưng quần một chút cho hai ống quần chùm sát gót. Thế là vẫn tươm tất trước tất cả những con mắt chào đón tôi tại ĐSQ ta ở Canberra.

Ngay sau những phút chào hỏi đầu tiên, qua cách ăn nói của mọi người tôi đã nhận ra một sự lộn xộn nào đó theo kiểu cá mè một lứa trong ĐSQ. Tôi coi như không để ý, từ tốn yêu cầu thu xếp chỗ nghỉ chu đáo, vì đường bay dài, muốn nghỉ sớm. Sau đó tôi lấy cái ghế ra ngồi tại giữa nhà, vui vẻ nói:

-       Đố cả nhà xem tôi có gì đặc biệt không?

Tiếng nói cười vui vẻ huyên thuyên, có đôi lời hơi quá chớn… Song không ai thấy tôi có gì đặc biệt.

Tôi đứng lên đi đi lại lại giữa nhà, điệu bộ như người biểu diễn thời trang:

-       Cứ ngắm kỹ nữa đi! Nói trúng sẽ có thưởng!

Mãi, rồi mọi người vẫn lắc đầu chịu.

Tôi ngồi lại vào ghế, rồi kéo hai ống quần lên, đưa cả hai chân lên trời, giải thích đôi điều. Đôi giầy gãy gót của tôi đem lại cho mọi người một trận cười…

Kết thúc buổi đố vui, tôi đứng dậy nghiêm nghị:

-       Xin nói vài câu về công việc, sáng mai tất cả chúng ta sẽ bắt đầu. Bộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch yêu cầu sứ quán ta phải làm mọi việc, vận động Úc sớm đón Bộ trưởng để phá vỡ bế tắc ngoại giao. Từ sáng mai, ai phải làm đúng việc nấy. Không hoàn thành nhiệm vụ, tôi sẽ đuổi về nước ngay tức khắc. Bây giờ mời các đồng chí về đi ngủ!

Tôi cảm nhận được sự bất ngờ trong phòng trên khuôn mặt mọi người. Những lời nói nghiêm của tôi có tác dụng…

Vài ba ngày sau tôi thu xếp xong việc giúp vợ chồng anh S về nước. Hai anh chị kỹ tính đến mức yêu cầu tôi phải cùng bay từ Canberra để tiễn tại sân bay Sidney, tôi cũng chiều lòng, vì muốn nhanh chóng tập trung vào những việc phải làm.

Sau đó, ngay lập tức tôi sắp xếp lại toàn bộ công việc của cơ quan theo đúng chức năng từng người – bao gồm cả những việc phải kiêm nhiệm; loại bỏ sự nhập nhèm coi “việc kiêm nhiệm” chỉ là những việc tự nguyện, làm cũng được, không làm cũng được, thậm chí làm thì cơ quan phải bồi dưỡng thêm tiền…

Tôi nói dứt khoát: Ngoài lương ra, không có gì hết.

Mọi chuyện dần dần vào khuôn phép, tôi dồn mọi sức lực cho nhiệm vụ ngoại giao và chuyện của anh S.

Được Bộ Ngoại giao Úc giới thiệu tôi là người mới đến thay anh S, báo chí sở tại túm bắt tôi mọi lúc có thể để khai thác, vì Việt Nam đang có nhiều vấn đề nóng bỏng. Một số cơ quan, tổ chức, trường đại học… tới tấp mời tôi đến nói chuyện.., lịch làm việc lúc nào cũng kín mít. Tôi cố đáp ứng ở mức có thể, nghĩa là dứt khoát không trốn tránh khi thời gian còn cho phép… Nhất là lúc này vấn đề Campuchia đang rất nóng.

Thời gian này đang là cao trào của những hoạt động quyết liệt chống đối nhà nước CHXHCNVN của các lực lượng khác nhau trong cộng đồng bà con người Việt sống ở Úc. Biểu tình trước ĐSQ ta để chống đối là chuyện thường xẩy ra vào mọi dịp khác nhau, có những cuộc biểu tình khá quyết liệt, kéo dài nhiều giờ, thậm chí có khi quá khích đạn bắn vào quốc huy treo ở cửa ĐSQ… Trên đường đến làm việc tại các cơ quan của Úc, xe của Việt kiều quá khích đuổi theo xe chúng tôi làm những chuyện uy hiếp này nọ… là chuyện bình thường…

Tôi đã làm quen với những thứ căng thẳng này trong một vài chuyến đi Mỹ trong những năm trước, nên không bận tâm lắm. Lần căng thẳng quyết liệt ở Mỹ tôi nhớ mãi là trong chuyến đi của Phó thủ tướng Trần Đức Lương, tôi được Bộ cử sang làm cố vấn cho đoàn trong những vấn đề kinh tế đối ngoại. Trong chuyến đi này tôi không phải là thành viên chính thức của đoàn, nên rất nhàn, chỉ phải dự cuộc họp hội ý mỗi ngày vào buổi tối sau khi chương trình làm việc của ngày kết thúc, ban ngày hoàn toàn tự do. Ngay hôm đầu, tôi rủ một cán bộ trẻ của Bộ Ngoại thương thông thạo đường phố Washington DC tranh thủ đi tìm hiểu tình hình tại chỗ. Chúng tôi mặc quần áo thể dục thể thao, nói trước với bảo vệ của Mỹ và yêu cầu họ phát cho mỗi chúng tôi một huy hiệu bỏ túi, để họ có thể biết chúng tôi ở đâu và giúp đỡ nếu cần… Lý do nói với họ: Chúng tôi thích tìm hiểu thủ đô nước Mỹ… Ra cổng sau để rời khách sạn… Việc đầu tiên là chúng tôi trà trộn vào khách đi đường để len sát những toán người biểu tình khá đông, mặt đằng đằng, rất giận dữ khi hô khẩu hiệu và giương cờ, nhưng không ai vượt làn ranh bước xuống lòng đường… Họ đến từ những địa phương khác nhau ở Mỹ, những giọng nói tiếng Việt cũng khác nhau… Tôi cố tìm hiểu thái độ của họ.., nghe và biết được điều này điều nọ.., cả cách thức họ tổ chức biểu tình… Sau đó hai chúng  tôi rủ nhau đi xem nghĩa trang Arlington để hiểu thêm những khía cạnh khác nhau của cuộc chiến tranh Việt Nam của Mỹ và vấn đề MIA (Missing In Action)… Có lúc chúng tôi kín đáo đứng xem những người Mỹ đi viếng mộ có thân nhân đã chết trên chiến trường Việt Nam…. Người đi viếng nâng niu những kỷ vật họ mang đi từ nhà, trò truyện với người đã khuất như thể đang hiện hữu trước mặt… Hôm ấy cũng có một vài gia đình người Việt đi viếng… Sau đó chúng tôi đi một số nơi khác…

Một kiểu đi dã ngoại như vậy hiểu thêm vấn đề MIA, biết thêm được nhiều thứ…

Song tại Canberra, chuyện khó nhất đối với tôi không phải là những cuộc biểu tình và những biểu hiện quá khích, mà là vấn đề Campuchia!

Tôi nhớ mãi, căng thẳng nhất là hôm nói chuyện và đối thoại với trường đại học Canberra. Cả thầy giáo và sinh viên ở đây dứt khoát phản đối Việt Nam trong vấn đề Campuchia, mặc dù tôi đã giải thích cặn kẽ mọi khía cạnh.

Họ vẫn một mực kết luận: Cứ cho những gì đại sứ giải thích là sự thật đi, song có hai điều không thể chấp nhận:

-       Tại sao diệt xong Polpot các ngài không rút quân về, mà tự biến mình từ một nước kháng chiến giành độc lập trở thành một quyền lực chiếm đóng?

-       Úc là một nước yếu hơn nhiều cường quốc, bất kể kẻ ăn hiếp nào cũng có thể bắt chước Việt Nam dùng luận điệu cứu nước Úc khỏi cái này cái nọ để xâm lược Úc! Chủ quyền quốc gia và luật pháp quốc tế sẽ không còn nghĩa lý gì nữa.

Tôi tìm cách kết thúc đối thoại, vì biết không thể một buổi nói chuyện thế này mà thay đổi nhận thức của họ được, phát biểu đại ý:

Tôi không muốn áp đặt, song gợi ý họ nên từ các mối tương quan giữa các nước liên quan đến vấn đề Campuchia tự đăt ra một số câu hỏi rồi tự tìm câu trả lời,  hy vọng họ sẽ hiểu rõ vấn đề. Tư liệu thông tin và sách báo có thể giúp họ làm tốt việc này, và chắc chắn họ sẽ tìm được câu trả lời. Những câu hỏi nên đặt ra có thể là:

-       Một nước vừa mới ra khỏi 2 cuộc chiến tranh ác liệt kéo dài mấy thế hệ để bảo vệ tổ quốc mình, có lợi ích gì mà lại tiến hành ngay một cuộc chiến tranh chống  Polpot?

-       Tại sao lực lượng Polpot bé teo lại dám phát động một cuộc chiến tranh chống một nước như Việt Nam đã thắng cả Mỹ, lại còn dám tuyên bố sẵn sàng hy sinh 2 triệu người Campuchia để diệt 50 triệu người Việt? Ngông cuồng này phải có một cái gì đó đứng    đằng sau chứ?

-       Bàn tay của Trung Quốc can thiệp và sai khiến Polpot như thế nào? Cái gì đã dẫn Polpot đến chính sách diệt chủng ở Campuchia?

-       Giữa cuộc chiến tranh Polpot chống Việt Nam và cuộc chiến tranh của Trung Quốc 17-02-1979 chống Việt Nam để căng Việt Nam ra 2 đầu mà đánh có mối liên quan gì không?

-       Vân vân…

Sau cuộc đối thoại này, chính tôi cũng học được nhiều điều, nhất là hiểu rõ hơn cách nhìn của người nước ngoài đối với những vấn đề của nước ta.

Việc vận động phía Úc sớm tiếp Bộ trưởng ta phải tuần tự vi tiến, song song với những gì đang diễn ra trong khu vực, không thể tách rời đi nhanh được.

Khoảng 3 tháng sau tôi cũng đi tới kết luận về chuyện anh S.

Cách làm của tôi đại thể là trao đổi trong toàn cơ quan trên từng khía cạnh khác nhau trong từng cuộc họp khác nhau, để tìm hiểu xem mọi người trong cơ quan nghĩ gì và kết luận như thế nào về việc anh S xin về nước gấp. Mọi người đều được phép nói suy nghĩ của mình. Tôi cũng có những cuộc trao đổi riêng rẽ, tìm hiểu những mối quan hệ trong nội bộ giữa các nhân viên với nhau, mối quan hệ của ĐSQ và của một số nhân viên với bên ngoài, đánh giá một số sự việc, một số việc ĐSQ đã làm… Song từ đầu đến đuôi tôi giữ riêng cho mình mọi nhận xét, đánh giá của tôi về ý kiến của từng người.

Có mấy khía cạnh làm tôi mất nhiều tâm trí đắn đo: Tình hình nghiêm trọng đến mức nào mà anh S phải xin thôi chức và xin về nước gấp như vậy? Cái gì tạo ra sự nghiêm trọng này? Lý do gì mà anh S dứt khoát yêu cầu tôi phải tiễn vợ chồng anh đến tận Sidney? – bởi vì từ đấy là bay thẳng về Việt Nam, không phải stop over ở đâu nữa trên đất Úc… … …

Nếu tôi kết luận sai, dù theo cách nào, trách nhiệm của tôi cũng rất lớn: Hoặc là để lọt một tội ác phá hoại nào đó chống lại đất nước, hoặc sẽ gây ra cho anh S một oan khiên không cách gì gỡ được!

Độ hai tháng tôi đã đi tới kết luận cuối cùng, song phải mất thêm một tháng nữa đánh vật với kết luận của mình, tôi mới chính thức điện mật báo cáo về nước, nội dung:

Nguyên nhân của sự việc là yếu kém của anh S và hư hỏng của một số người trong cơ quan muốn hại anh S, không có bàn tay địch nào ở đây cả!... Đề nghị làm một số việc có liên quan để giải quyết… …

Đương nhiên tôi không cho cơ quan biết nội dung điện mật này, mà chỉ đặt vấn đề mọi người phải sửa chữa khuyết điểm của mình, có trách nhiệm cùng nhau làm cho cơ quan lành mạnh và hoạt động hiệu quả cao nhất.

Điện gởi đi, tôi thấy nhẹ cả người.

Thêm một số thời gian nữa ở Úc, tôi tính đến làm một số việc lâu dài hơn, trong đó có việc đi tìm mua nhà mới cho ĐSQ ta ở Úc, vì nhà đang ở chật quá…

Rồi cái ngày anh Hoảng Bảo Sơn sang Úc trình quốc thư nhậm chức đại sứ đặc mệnh toàn quyền của Việt Nam cũng đến, công việc đầu tiên là xúc tiến chuẩn bị cho chuyến đi thăm Úc chính thức của Bộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch.

 

Từ Úc trở về Bộ Ngoại giao, loanh quanh thế nào Bộ lại bố trí tôi về làm vụ trưởng Vụ châu Á 2, gồm các nước Lào, Campuchia và 6 nước ASEAN, một vùng trời đất chưa bao giờ là lãnh địa chuyên sâu của tôi. Việc thay đổi như vậy xảy ra như cơm bữa, vì mọi guồng máy của Bộ không được dừng hoạt động dù chỉ là một phút, nhưng cán bộ chủ chốt luôn luôn thiếu…

Đối với tôi, rủi mình là lính mới tò te của vùng này, may là lại thêm một không gian mới cho mình chinh phục.

Khoảng giữa năm 1989, tôi được bổ nhiệm làm đại sứ tại Thái Lan. Tôi hiểu đây là một nhiệm vu cam go. Bởi vì quan hệ Việt Nam – Thái Lan vốn dĩ phức tạp suốt toàn bộ thời kỳ ta kháng chiến chống Mỹ, sau chiến tranh vẫn là nước tuyến đầu (front state) của Mỹ chống Việt Nam, song tình hình Thái Lan lúc này đang có những biến chuyển biến mới năng động, phức tạp…

Được nhận nhiệm vụ đại sứ ở Thái Lan, thật ra chính tôi cũng bị bất ngờ, vì Bộ đã dự kiến bổ nhiệm tôi làm đại sứ tại Nhật, song có lẽ vì quan hệ kinh tế của ta với Nhật rất quan trọng nên sau đó Bộ cử anh Võ Văn Sung, nguyên đại sứ của ta ở Pháp. Tiếp nữa, Bộ dự kiến bổ nhiệm tôi đi làm đại sứ ở Cộng Hòa Liên Bang Đức, đơn giản đây là lĩnh vực chuyên sâu của tôi, nhưng sau đó lại bổ nhiệm anh Võ Hồng Phúc…

Vùng trời thuộc nhiệm vụ tôi được giao mới quá, tôi phải dành khoảng 3 – 4 tháng chuẩn bị, gần như học từ đầu, nhất là học những thứ chưa biết mà nhiệm vụ cần, gặp nhiều cơ quan liên quan các ngành khác nhau – cả bên an ninh và quân đội.., đi đến nhiều nơi trong cả nước để tìm kiếm thông tin và nắm những vấn đề cần thiết, trong đó có cả một số bà con Việt kiều đã về sống trong nước…

Vào lúc này quá trình tìm giải pháp cho vấn đề Campuchia ở giai đoạn gai góc nhất, Trung Quốc chống ta quyết liệt (và sau đó diễn ra Hội nghị Thành Đô); Mỹ (có lẽ vẫn cay cú) vào hùa với Trung Quốc làm nhiều chuyện khó dễ với ta trong quá trình bao vây cấm vận, mặc dù ta tìm mọi cách bầy tỏ thiện chí – nhất là trong vấn đề MIA (Missing In Action), kinh tế trong nước tuy bắt đầu đi vào thời kỳ đổi mới nhưng vẫn còn rất nhiều khó khăn, bỡ ngỡ…

Tôi hiểu được tầm quan trọng nhiệm vụ phải làm và những khó khăn, nên rất cẩn trọng...

Chuẩn bị xong, tôi mệt phờ. Xin phép Bộ nghỉ một tuần, tĩnh tâm.

Tôi gạt công việc sang một bên, thăm quê và đến một số nơi gia đình tôi đã sống thời kháng chiến chống Pháp… Trong đó có một nơi đến rất thiêng liêng trong tim tôi: Thăm trường học cũ, nơi tôi 40 năm về trước đến nhập học, rồi từ đấy ra đi, nhưng không kịp từ biệt mối tình đầu trước khi bước vào chiến dịch Điện Biên Phủ…

Đứng trên mảnh đất trường xưa, tôi thầm trong lòng nói lời tạ từ muộn mằn…

 

Hôm nay về cội nguồn

Của một thời trai tráng

Lòng dạ sao bâng khuâng

Những ngày xưa bật sáng… 

 

…Đây rặng tre năm nào

Soi mình bên sông Thao…

…Nơi đây, ngôi trường cũ

Tiếng trẻ đùa lao xao… 

 

…Tim anh đau thắt lại

 

Nơi đây anh gặp em

Nơi đây chia tay em

Không một lời tiễn biệt

Nụ cười vương trên môi

Đuôi mắt giọt lệ rơi… 

 

…Ngày ấy năm nao nhỉ…

Còn nhớ chăng – ngày ấy năm nao… 

 

Chẳng ai nghe anh hỏi

Một nỗi buồn chơi vơi…

…Còn đâu ngôi nhà cũ

Không tìm em bằng lời

Tìm em trong tim tôi… 

 

…Ngày ấy năm nao nhỉ…

Anh bước tiếp tìm em

Tự tìm mình thưở trước

Bạn bè xưa xa vắng…

Nhưng trang sách còn đây…

Lời thầy giảng còn đây… 

 

…Một tiếng chim thánh thót

Rơi xuống từ cao xanh

Ngỡ tiếng em, anh gọi

Không một lời đáp lại

Cánh chim vụt bay nhanh…

Bỏ anh giữa rừng xanh… 

 

…Ngày ấy năm nao nhỉ…

Tay chung tay dựng trường

Rau xanh làm chung luống

Học về chung lối xóm

Sớm khuya chung đĩa đèn

Trời nắng mưa chung nón… 

 

…Giữa buổi học chưa tan

Anh lên đường nhập ngũ

Tràng pháo tay tiễn đưa…

Tạ từ tình thầy bạn

Giữa hàng quân vẫy em…

…Ngày ấy năm nao nhỉ…

Xa xa tiếng súng dồn… 

 

…Lý trí mách bảo anh

Ra đi sẽ mất em

Tim anh như muốn vỡ

Nhưng nước mất nhà tan

Sẽ mất em lần nữa…

Bàn tay anh nắm chặt

Chân in sâu trong đất… 

 

…Biết chăng em ngày ấy…

Ngày đầu tiên ra trận

Bom đạn ập xuống đầu

Vùi anh trong cát sâu

Ba-lô cháy một nửa…

-       Nhưng tim anh vẫn một nhịp

Đập cho em và anh… 

 

…Bao dặm trường gian khổ

Ốm đau quật xuống đường

Anh vẫn ngước nhìn lên

Tìm ngôi sao trên trời

Lấy thêm sức đi tiếp

Sao lung linh đáp lời… 

 

…Đường đời sao kể siết

Tháng ngày sao đếm được

Chiến tranh tiếp chiến tranh

Đắng cay nhuốm tóc xanh

Nhưng tình xưa vẫn trẻ

Số phận thử lòng anh

Càng gần càng xa mãi… 

 

…Ngày về anh gặp em -

Nào ngờ - ngày vĩnh biệt…

Khói hương sao lưu luyến

Như tóc em vương bay…

…Ôi em ơi…

Khôn thiêng xin níu tay…

 

…Ở nơi nao chín suối

Biết chăng anh về đây…

Ngàn nỗi đau chôn chặt

Đời trên vai thêm nặng… 

 

…Mấy chục mùa én bay

Dệt vần thơ trên trời

Một bước đi

Một hơi thở

Là một vần gieo tiếp

Gửi cho ai… Ai biết…

Lặng lẽ một mình anh

Ấp ủ vần thơ ấy

Như tình xưa riêng anh

Giữ cho em thuở nấy…

 

 …Hôm nay anh về đây

Không nhành hoa viếng tặng

Chỉ vần thơ mang nặng

Nói lòng anh với em

Nói lòng mình với anh

Những vần thơ chắt chiu từ lẽ sống…

 

                    (Hết.

                     Âu Lâu / Yên Bái, thu năm 1989)

 

 

 

…Quan chức Thái Lan đầu tiên tôi gặp khi đặt chân đến Bangkok là quốc vụ khanh Bộ Ngoại giao Sidthisavesthila, một người có quan điểm cực hữu.

Làm xong mọi nhiệm vụ ban đầu và việc chuẩn bị cho trình quốc thư, tôi nói với quốc vụ khanh:

-           Thưa ngài, bây giờ tôi có một việc riêng cá nhân muốn nói.

-           Xin mời ngài đại sứ.

-           Vâng, xin cảm ơn. Tôi biết ngài xưa nay là người có quan điểm chống Việt Nam, khá quyết liệt. Nhưng đấy là chuyện quốc gia – quốc gia. Song riêng tôi vẫn hàm ơn ngài rất lớn.

-           Xin lỗi, đại sứ nói gì tôi chưa hiểu!?

-           Xin thưa, câu chuyện là thế này. Khi thủ tướng Chatichai lên nhậm chức, muốn thay đổi quan hệ với Việt Nam, nên thủ tướng đã ngỏ ý cho Việt Nam vay 2 triệu USD theo lãi suất ưu đãi để mua ngô của Thái Lan mà Việt Nam đang cần. Hai bên đã đàm phán xong xuôi cho việc này, nhưng phút cuối cùng chính ngài đã phản đối quyết liệt!

-           Vâng, tôi biết, câu chuyện đúng là như thế.

-           Tôi nằm trong phái đoàn đi Bangkok ký thỏa thuận này, sáng mai chúng tôi lên đường, thì buổi tối nhận được điện của đại sứ Lê Mai (người tiền nhiệm của tôi) cho biết: Ngài nhất định phản đối. Dự án này thất bại. Chuyến bay của chúng tôi bị hủy. Song không may, máy bay lẽ ra chở đoàn chúng tôi sáng hôm sau đã bị rơi tại Bangkok, đoàn chúng tôi thoát nạn, nhưng số hành khách thế chỗ và toàn bộ hành khách khác đều tử nạn… Tôi hôm nay còn sống để vài hôm nữa sẽ hân hạnh được trình quốc thư lên Quốc vương của ngài, và hôm nay có dịp trực tiếp cảm ơn riêng cá nhân ngài về may mắn này.

Quốc vụ khanh đang ngồi, đột nhiên đứng dậy, nắm lây tay tôi, vừa ôm chầm lấy tôi, vừa vừa xuýt xoa – một phản ứng rất tự nhiên giữa người với người!

-           Ôi mừng cho đại sứ, song thật vô cùng đáng tiếc cho những người không may!.. Tôi xin vô cùng chia buồn…

 

Lời cảm ơn của tôi là đòi hỏi của chính tôi và chân thật. Song tình cảm thật giữa Sidthisavesthila và tôi với nhau, mau chóng làm cho hai chúng tôi trở nên bạn thân của nhau trong suốt nhiệm kỳ công tác của tôi ở Thái Lan cũng như mãi về sau này, khi ông ta làm cố vấn cho tập đoàn Amata – chủ đầu tư khu công nghiệp Đồng Nai hiện nay.

Cũng phải nói thêm, vì được hưởng sự quý trọng của Sidthisavesthila, nên tôi tiếp cận với Bộ Ngoại giao nói riêng và các cơ quan khác của Thái Lan nói chung khá thuận lợi.

Có một trục trặc lễ tân nhỏ.

Theo tục lệ ngoại giao, đại sứ mới đến phải đi chào xã giao các đại sứ đã đến trước. Người phó của tôi trong sứ quán và cán bộ phụ trách lễ tân, nhất định khuyên tôi không nên đến chào xã giao đại sứ Trung Quốc. Lý do: Đại sứ Lê Mai đã đến chào xã giao đại sứ này, nhưng ông ta không thèm chào đáp lễ, thái độ đối với ta lúc nào cũng khinh khỉnh. Cũng dễ hiểu, vì đây là thời kỳ quan hệ Việt – Trung rất căng thẳng.

Tôi quyết định: Vẫn cứ lên lịch cho tôi đi chào đại sứ Trung Quốc.

Một hai tháng trôi qua, không có hồi âm, mặc dù tôi đã đôi ba lần gặp bắt tay và nói chuyện với đại sứ Trung Quốc trong một số hoạt động của đoàn ngoại giao -  đương nhiên ông này vẫn rất trịch thượng.

Bị sứ quán ta thúc rát quá, cuối cùng đại sứ Trung Quốc cũng phải xếp lịch hẹn tiếp tôi thăm xã giao tại nhiệm sở của ông ta.

Trong những năm trước, tôi đã đôi ba lần được nếm cái võ bất lịch sự này của Trung Quốc rồi (trong đó có thái độ trịch thượng của lãnh đạo Trung Quốc đối với lãnh đạo ta, song trường hợp tệ nhất mà tôi cũng là nạn nhân có lẽ là thái độ của Trung Quốc đối xử với đoàn đại biểu Đảng do Ủy viên Bộ Chịnh trị Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Duy Trinh dẫn đầu đi dự đại hội VII của ĐXHTN Đức – trên đường dừng chân tại Bắc Kinh, lúc đó đang cao trào của cách mạng văn hóa, với những chuyện tôi không muốn kể lại…), ngoại giao có cả những chuyện tiểu nhân như vậy…

Tôi đến ĐSQ Trung Quốc đúng giờ, được lễ tân trịnh trọng mời vào phòng khách, mang trà nước bánh kẹo rất lịch sự ra tiếp, với lời xin lỗi: Đại sứ đang nói chuyện đường dài với trong nước, xin quý khách chịu khó chờ.

Tôi nhìn đồng hồ, 15 rồi 20 phút, rồi hơn nữa… vẫn chưa thấy chủ nhà ra tiếp. Tôi vẫn bình thản uống nước, hút thuốc lá, chờ…

Cuối cùng thì chủ nhà cũng ra tiếp, với lời xin lỗi này nọ, với ngôn ngữ Việt rất thạo (bây giờ tôi không nhớ rõ tên ông đại sứ này, song nói tiếng Việt thông thạo không kém đại sứ Trương Đức Duy ở Việt Nam)…

Tôi nghe, rồi thong thả, rành mạch:

-        Rất cảm ơn đại sứ đã dành thời giờ tiếp tôi, mặc dù cán bộ của tôi cho tôi biết người tiền nhiệm của tôi đến chào đại sứ, nhưng đại sứ đã không đến đáp lễ. Chờ lịch tiếp của đồng chí khá lâu, cán bộ của tôi đòi hủy, tôi không cho hủy. Chờ lâu thế nào tôi vẫn quyết chờ, không thay đổi. Vì quan hệ giữa hai nước và hai đảng của chúng ta đòi hỏi tôi phải làm như vậy. – đến đây tôi dừng lại.

Chủ nhà bị bất ngờ về sự thẳng thắn của tôi. Mãi mới đối đáp được mấy câu gượng gạo.

Tôi chủ động chuyển chuyện xã giao sang chuyện trao đổi một số vấn đề của Thái Lan, vừa để cho không khí trở lại bình thường, cũng vừa muốn thăm dò thêm thái độ của Trung Quốc, nêu vài ý kiến của tôi, hàm ý tôi nghĩ khác chủ nhà…

Từ sau đó trở đi tôi không thấy sự trịch thượng nữa, thậm chí có lúc là sự vồn vã hơi quá, nhưng có lý do. Đấy là lần xảy ra đảo chính, tướng Chatichai bị hất, tướng Suchinda lên làm thủ tướng ngày 23-02-1991.

Hôm ra mắt các đại sứ, Suchinda rất vồn vã, tiếp mọi người ngay trong phòng khách khá hẹp bên cạnh phòng làm việc của mình, khách phải ngồi cả trên những ghế đệm dài mới đủ chỗ…  Suchinda chủ động ngồi trên ghế dài, dành các ghế lẻ cho khách, mời một số đại sứ ngồi cùng ghế dài với mình cho thân mật. Đại sứ Trung Quốc đến ngồi ngay bên cạnh Suchinda, còn những đại sứ khác đang cố tìm một chỗ xa xa hơn, vì sự dè dặt cần thiết… Tôi thấy cũng phải dè dặt như vậy, vì  tình hình còn diễn biến, chưa biết sẽ thế nào. Nhưng đại sứ Trung Quốc rất nhiệt tình với Suchinda, nói tiếng Anh mời tôi ngồi cùng. Tôi cảm ơn và đáp lại:

-     Thanks, the Veterans first please! (Cảm ơn, trước hết xin nhường các đại sứ cựu trào!).

 

…Sống được vài tuần, tôi thấy khí hậu Thái Lan khá nóng, cả ĐSQ chỉ duy nhất phòng ở của vợ chồng tôi có máy điều hòa. Phần thì tôi thấy sự phân biệt này bất tiện quá, phần thì ái ngại cho các nhân viên của mình phải sống khổ. Đơn giản vì Bộ Tài chính quy đinh như vậy. Tôi hỏi người phó của tôi ngân sách Bộ cấp cho hàng năm có chi hết không? Được biết là chi không hết, dồn lại để khấu vào ngân sách năm sau. Ngay tức khắc tôi quyết định lắp máy điều hòa cho tất cả các phòng ở của nhân viên. Người phó và cán bộ tài vụ của ĐSQ rất sợ, vì như thế sẽ trái và sẽ bị kỷ luật. Tôi quyết định cứ làm, mọi tội tôi chịu. Đương nhiên trong nhà có điện đi điện về chất vấn này nọ, song việc đã rồi, tôi cũng không bị làm sao cả.

Thời gian công tác ở Bangkok, tôi được trong nước tặng cho cái nickname “đại sứ bán sứ quán”, có lẽ tếu và không thân thiện lắm. Lý do là tôi đã đề nghị về nước bán trụ sở ĐSQ để mua một khu đất rộng hơn, tiện đường vào trung tâm thành phố và đỡ tắc xe hơn, tiền thu được hoàn toàn đủ cho xây dựng một khu đại sứ quán hoàn chỉnh của Việt Nam, chỗ làm việc và chỗ ở của toàn bộ các gia đình cán bộ công nhân viên đều khang trang, chính quy cho một quy mô đại sứ quán lớn hiện đại. Đề nghị bị bác và tôi được thưởng cái nickname.

Còn một quyết định cá nhân nữa: Cán bộ nhân viên sứ quán đông, vì hồi ấy Bangkok là cửa ngõ của nước ta ra thế giới. Nhưng rất thiếu chỗ ở. Vợ chồng tôi được cơ quan giao cho 1 buồng cả ở và làm việc, thế là ưu đãi số một rồi! Nhưng vợ tôi suốt ngày cứ phải chạy quanh trong cơ quan, vì không chịu nổi khói thuốc lá của tôi. Một câu hỏi trêu tôi:

-     Chọn vợ hay chọn thuốc lá?

-     Thà chết còn hơn, chọn vợ!

Thế là ngay hôm sau tôi bỏ thuốc lá. Quyết định một lần trong giây lát, nhưng thực hiện suốt đời cho đến hôm nay, sau đúng 40 năm tôi say sưa với nó!

Tôi bắt đầu hút thuốc lá khi bước vào trung học, vì xa nhà và vì chẳng có gì hơn để bay bổng với nhau tuổi học sinh. Tụi tôi bắt đầu từ hút thuốc lá tự trồng, lúc nào xin ở đâu được tý mật ong tẩm vào nữa, thì tâm hồn chúng tôi ngồi tất cả với nhau trên cành cây. Có giấy báo thì cuốn thuốc lá bằng giấy báo. Có lúc là giấy pelure (đánh máy chữ), thậm chí có lúc lá nó cuốn nó!.. Ngón chỏ và ngón cái cuộn thuốc lúc nào cũng vàng kịt…

Hôm nay tôi mới dám nói, bỏ thuốc lá không khó, miễn là mình có cái gì quý hơn nó phải chọn!..

Với cương vị đại sứ ở một nước có rất nhiều điều liên quan sâu sắc đến nước ta, tôi hăm hở bắt tay vào công việc. Ngay lập tức, tôi thấy nhiều việc muốn làm, nhiều điều muốn tìm cách tiếp cận khác… Nhất là tôi bị thôi thúc bởi suy nghĩ: Không thể để cho hết nước này đến nước khác trong thiên hạ mọi thời đại cứ chiếu tướng nước ta mãiCàng không thể chịu thua kém Thái Lan… Phải tìm ra một cái gì khác, con đường khác… Trước hết phải xóa cái nghèo và lạc hậu của đất nước…

Trong suốt một thập kỷ, kể từ sau khi tôi ở Bonn về cuối những năm 1970s cho đến khi tôi đi làm đại sứ ở Thái Lan mùa thu 1989, tôi hầu như dành hết tâm sức cho nghiên cứu mối quan hệ toàn diện của nước ta với thế giới bên ngoài, những vấn đề kinh tế và phát triển đất nước phải giải quyết, từ đó tôi nghĩ nhiều đến phải tìm một lối đi khác cho đất nước. Đòi hỏi này ngày đêm theo đuổi tôi cho đến hôm nay (2018) – tôi thấy không phải xấu hổ để viết ra tại đây những dòng này! Tôi âm thầm làm việc, vì là các vấn đề của đất nước quá tế nhị, tôi rất dễ bị quy kết khủng khiếp… Lúc này lúc khác, ngay trong khi tôi còn đang ở Bangkok, đã có đôi điều trong nước nói về tôi khá nặng nề, yêu cầu phải xem lại đại sứ này!.. … …Từ khi nghỉ hưu, đã có vài đồng nghiệp nói với lãnh đạo đảng và nhà nước tôi là loại “xét lại”… Chưa nói đến cách tôi phát biểu hay viết  thường khá gay gắt, khiến nhiều người khó chịu… 

Thời kỳ làm đại sứ ở Thái Lan, dù chỉ khoảng 3 năm thôi, song là thời kỳ tôi bắt đầu có nhiều suy nghĩ rất quyết liệt với những chủ đề nêu trên. Đầu óc lúc nào cũng nóng lên: tìm cái khác, con đường khác.., gần như là điên rồ... Vì tôi yêu tổ quốc mình, có thế thôi!

Ví dụ, chỉ sau khi đến Thái Lan vài tháng, tôi thấy ngay cái sai của nước ta cứ một chiều phỉ báng chính sách ngoại giao cây tre gió chiều nào ngả theo chiều nấy của Thái Lan là thực dụng, không có lập trường cách mạng và rất phản động, là làm tay sai hết cho nước này đến nước khác! Tôi tự hỏi mình ngay tức khắc: Nguyên nhân nào khiến Thái Lan là nước duy nhất trên lục địa Đông Nam Á đến nay không nước đế quốc nào chiếm được làm thuộc địa?

Xin hãy nhìn lại:

Thực dân Anh và thực dân Pháp đều dòm ngó rất sớm quốc gia này. Họ đã thành công rất sớm ở Đông Dương, ở các nước đảo ven Biển Đông, nhưng không thể đụng chạm vào độc lập của Thái Lan! Nguyên nhân chính là chính quyền nhà vua Thái thời đó đã khai thác thành công mâu thuẫn giữa 2 đế quốc Anh – Pháp, nhờ đó vô hiệu hóa được tham vọng của cả 2 muốn thôn tính Thái Lan! Chiến tranh thế giới II cũng lan tới Thái Lan, nhưng Nhật chưa đô hộ Thái Lan được lấy một ngày! Càng đáng suy nghĩ hơn nữa: Thái Lan trở thành đồng minh của Nhật trong chiến tranh thế giới II. Nhưng trước khi Nhật thua hẳn, chỉ thông qua cuộc đảo chính duy nhất ngày 01-08-1944 lật đổ chính phủ thân Nhật, ngay hôm sau lập tức Thái Lan lại trở thành đồng minh của phương Tây trong chiến tranh thế giới II!.. Từ sau chiến tranh thế giới II đến hôm nay, cũng chưa  có một quả bom hay một viên đạn nào của nước ngoài nổ trên đất Thái Lan, mà chỉ có từ đây bom đạn của nước ngoài đem đi đánh các nước khác, trước hết là Việt Nam, Thái được trả công bằng tiền và bằng nhiều thứ lợi khác! Chủ nghĩa Mao-ít cũng không len vào được Thái Lan, mặc dù kinh tế Thái hầu như các tập đoàn lớn người Thái gốc Hoa chi phối, phong trào cộng sản ở Thái bị diệt sạch!..

Vậy đánh giá chính sách ngoại giao cây tre của Thái như thế nào? Bằng một thứ đạo đức rất đẹp nhưng mơ hồ, hay bằng lợi ích quốc gia của chính nước Thái? Hay là bắt người Thái Lan phải đứng trên lập trường của Việt Nam đánh giá chính sách đối ngoại của họ?

Một câu hỏi khác dày vò tôi không kém: Thái Lan đã mở cửa với chủ nghĩa tư bản và các nước thực dân phương Tây, từ 1818 trở đi, đã lần lượt ký kết những hiệp đinh bang giao và buôn bán với Bồ-đào-nha, Hà Lan, Anh, Pháp, Mỹ… - nghĩa là đi trước cải cách của Thiên Hoàng Minh Trị tại Nhật gần 60 năm (được bắt đầu thực hiện từ 1877). Thế nhưng Thái Lan lại không thể tạo ra sự phát triển như của Nhật Bản. Cho đến hôm nay (2018) cũng vậy! Và không biết đến bao giờ Thái Lan mới có thể trở thành một nước tư bản phát triển!?..

Tại sao?

Tìm hiểu, cuối cùng tôi chẩn đoán: Tại căn bệnh Thái Lan!  (tên căn bệnh này do tôi đặt ra, đúng / sai thế nào còn phải chờ cuộc sống kiểm nghiệm). Vào dịp thuận tiện sẽ nói rõ hơn, vì dễ đụng chạm đến những vấn đề quá nhạy cảm của Thái Lan (vấn đề lese-majesty). Nhưng có thể thấy ngay sờ sờ trước mắt: Từ khi Thái chuyển sang chế độ quân chủ lập hiến năm 1932 đến năm 2018 này, trung bình cứ 3 đến 5 năm (có lúc chưa đầy 2 năm) một cuộc đảo chính quân sự thì không thể nào ra đời một Thái Lan công nghiệp hiện đại và dân chủ được! Trong khi đó quá trình công nghiệp hóa ở Hàn Quốc chỉ đòi hỏi 30 năm (1960 – 1988).

Và riêng tôi thực sự lo: làm sao nước ta có thể phòng ngừa được cho mình căn bệnh Thái Lan. Hôm nay tôi vẫn lo như thế cho nước ta!

Phải chăng hôm nay Việt Nam mấy chục năm nay đã mắc căn bệnh nói trên rồi, nhưng ở dạng mới: Căn bệnh nước không chịu phát triển! (Lý Quang Diệu). Tên nước của căn bệnh này là Việt Nam – đại thể như cúm H5N1 là Thái, H5N2 là ta – song H5N2 hình như còn tồi tệ hơn H5N1?

Nêu khái quát như thế về Thái Lan tại đây, tôi muốn trình bầy tại sao tôi bị thôi thúc ghê gớm phải tìm một con đường phát triển khác cho nước ta khi tôi với tư cách là đại sứ đặt chân tới Bangkok! Có thể nói đây là thời kỳ tôi có nhiều suy nghĩ gần như điên rồ, vì sốt ruột quá, đất nước mình khổ lâu quá.., tự tôi cũng biết thế và cứ phải tìm cách tự kiềm chế mình.

 Thậm chí trong đầu, có lúc tôi tự đánh vật với mọi trí tưởng tượng có thể.., chỉ để nghĩ xem có thể làm gì!..

-        Có một con đường hình thành một nước Việt Nam trung lập không? – Suy nghĩ này đổ ngay trong một giây, vì tôi hiểu trung lập là mục tiêu; còn trí tuệ, lực và phương tiện để thực hiện nó thì nước ta hoàn toàn tay trắng. (Sau này tôi có nêu lại suy nghĩ này trong tiểu thuyết “Dòng đời”, xuất bản năm 2006).

-        Có thể tạo ra một ASEAN xanh được không? – với nghĩa hòa bình, dân chủ, tiến bộ và phát triển, đi với tất cả mọi cường quốc và toàn thế giới, nhưng không cho phép bất kỳ một thế lực cường quốc nào thao túng khu vực này... Câu trả lời chứa tới vài trăm con zero, trong đó Việt Nam cũng chiếm vài chục zero… Vì bản thân Việt Nam như thế này, thì không có cách gì có thể “xanh” được… Lúc  này Việt Nam vẫn chưa gia nhập ASEAN và Mỹ còn đang bao vây cấm vận nên càng khó! (Sau này, khi Việt Nam đã gia nhập ASEAN, có lần tôi  đã nêu với bộ trưởng Phạm Gia Khiêm ý tưởng “xanh” này, nhưng không được bắt nhời! Có thể tôi bị coi là thẳng điên?)…

-        Có thể biến Cam Ranh thành một áo giáp sắt bảo vệ nước ta được không? Hiển nhiên một áo giáp sắt như thế vào thời kỳ sau chiến tranh Việt Nam của Mỹ, sau chiến tranh của Polpot đánh ta, sau chiến tranh TQ đánh ta 17-02-1979 và đã chiếm các đảo của ta 1988 (nghĩa là thời kỳ từ thập kỷ 1980s,1990s trở đi) là một tưởng tượng điên rồ: Một cảng vừa quân sự và có thể cả vừa kinh tế cho cả thế giới sử dụng và phải trả tiền thuê cho chủ nhà! Bằng cách đó có lẽ không ai đụng được đến ta và sớm rút ngắn được sự căng thẳng của thời kỳ hậu chiến! (Tôi đã có dịp  trao đổi riêng với một vài bậc đàn anh trong nhà và bạn chí cốt khi họ đi công tác ghé qua Bangkok về tưởng tượng điên rồ này, người thì lắc đầu, người thì hỏi “Mày có muốn mất đầu không?”, có người nói hẳn tôi là thằng điên! Những năm sau này có dịp gặp nhau chúng tôi vẫn nhắc lại với nhau kỷ niệm này…)[1]

-        Vân vân…

Nghĩ huyên thuyên trời đất gió mây như thế, song thật ra chỉ xoay quanh câu hỏi có cách nào thay đổi vị thế nước mình ở vị trí địa đầu không thay đổi được của lục địa này!? Lại thêm sát nách cái nước láng giềng khổng lồ!..

Tháng 2-1990, sản phẩm đầu tiên của tôi là gửi về nước bài “Bàn về con đường phát triển kinh tế nước ta”, đăng trên tạp chí Nghiên cứu Kinh tế trong 2 số (số 173 tháng 2-1990 và số 174 tháng 4-1990). Bài viết này thực ra là sản phẩm tôi gặt hái được thời học và làm kinh tế  trước đó – khi tôi là vụ trưởng Vụ kinh tế của Bộ Ngoại giao, được viết ra với sự kích thích từ những gì ở Thái Lan đập vào mắt tôi qua nghiên cứu sách báo và trong những dịp tìm hiểu Thái Lan. Nội dung chủ yếu của bài viết này là đánh giá thực trạng kinh tế yếu kém của đất nước, trình bầy mọi thông tin, tình hình lý lẽ để đi đến kết luận: Đất nước phải dám lựa chọn sự phát triển của mình phù hợp với xu thế và sự phát triển của kinh tế thế giới, với sự kiên định tinh thần đổi mới của Đại hội VI: mọi người được tự do làm ăn theo luật pháp, bắt đầu từ tìm cách giải phóng mọi tiềm năng của đất nước, tách quản lý hành chính ra khỏi quản lý kinh tế (lúc này tại một số bài khác tôi đã gọi đấy là yêu cầu xóa bỏ cơ chế “chủ quản”, được trình bầy đầy đủ hơn năm 1994, trong tạp chí Nghiên cứu Kinh tế số 198), chiến lược công nghiệp hóa như đang làm là sai, rất tốn kém và không hiệu quả, phải chuyển sang lấy thị trường thế giới làm đối tượng chứ không phải làm cái gì ta có và ta muốn, kinh nghiệm của một số quốc gia… Tuy không được rõ nét lắm – có thể vì trình độ có hạn, và đồng thời cũng phải tự bảo vệ, trong thời kỳ này tôi đã bắt đầu nhấn mạnh nguyên nhân thất bại của công nghiệp hóa và của các chiến lược kinh tế là không có một nhà nước lẽ ra phải có để vận hành: Nhà nước pháp quyền của kinh tế thị trường.

Đồng thời lúc này tôi cũng có một số bài bàn về những vấn đề chiến lược phát triển của đất nước đăng trên tạp chí Quan hệ Quốc tế của Bộ Ngoại giao: Đề cập đến “Cuộc chạy đua vào thế kỷ 21”, đặc biệt là giữa Liên Xô và Mỹ nói riêng, và giữa CNXH và CNĐQ nói chung; cho rằng cuộc đấu tranh “ai thắng ai?” – chủ yếu sẽ do mặt trận phát triển kinh tế xã hội quyết định. Vào lúc này cuộc khủng hoảng của các nước XHCN LXĐÂ đã đi vào thời kỳ dẫn tới sụp đổ bức tường Berlin. Bài viết lưu ý Việt Nam chưa được chuẩn bị cho cuộc đua này, và thời cơ không của riêng ai, cũng không đợi chờ ai – cũng có thể trở thành thách thức, nhấn mạnh phải “Gấp rút lấy lại thời gian đã mất”, nêu lên cần tận dụng sự phụ thuộc lẫn nhau và thấy rõ một số mạnh / yếu cơ bản của nước ta để phát huy lợi thế so sánh, cần sớm khắc phục yếu kém thiếu một nền kinh tế hàng hóa, đồng thời phải đẩy mạnh đường lối đối ngoại thêm bạn bớt thù… (QHQT số 1.1990, số 2.1990).

Ngày 01-05-1990 tôi viết một báo cáo đầu tiên dài 27 trang, gửi lãnh đạo trong nước (không phải chỉ riêng cho Bộ trưởng Bộ Ngoại giao), kiến nghị thay đổi hẳn quan hệ của ta với Thái Lan, mặc dù lúc này ta vẫn coi Thái lan là một front state của Mỹ. Thú thực là báo cáo phải che chắn lòng vòng để khỏi bị quy kết là “mất lập trường”, song cốt lõi nói rõ là: Đề nghị biến Thái Lan trở thành một đối tác đồng minh, vượt qua quan hệ thù địch Việt – Thái thời chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam, thực hiện tồn tại bên nhau, trước hết là cùng hợp tác trong một vùng nhỏ bé của khu vực và loại bỏ sự kình địch Việt – Thái liên quan đến Lào và Campuchia.

Lồng vào kiến nghị thay đổi quan hệ với Thái Lan, thực ra tôi kiến nghị thay đổi đường lối và chiến lược của đất nước trong “tình hình chủ nghĩa xã hội thế giới đã bị đẩy lùi một bước nghiêm trọng” (trang 26), nhấn mạnh trong khủng hoảng này Việt Nam cũng có cái mất, cái được (trang 26), song một thời cơ mới đang mở ra.., trong đó có “cái được lớn nhất là chúng ta (VN) đang tạo ra cho chính mình khả năng thực hiện sự chuyển biến này” (trang 26-27). Cách nói thì mềm thế thôi, song tôi gửi gắm thông điệp “Từ nay nước ta không cần phải theo ai nữa! Ta tự quyết định lấy vẫn mệnh của ta!..” [Hội nghị Thành Đô họp ngày 3&4-09-1990!]. Hôm nay có thể nói: Giữa lúc quan điểm chính thức của lãnh đạo cho rằng các nước LXĐA sụp đổ là tội của Gorbachov + Yeltsin + CIA (đến hôm nay, 2018, vẫn còn dai dẳng ý kiến này), quan điểm nêu trong báo cáo 01-05-1990 của tôi có thể được xem là phản động!

[Lạy trời, có lẽ nhờ cả hồng phúc gia tộc nữa, tôi thoát nạn, không bị quy kết hay phải xử lý – cho đến hôm nay là như vậy!..]  

Cũng có thể có một nguyên nhân rất quan trọng khác đứng về phía tôi: Bộ Ngoại giao hồi ấy nói chung, tiêu biểu là bộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch, đại diện cho một trường phái gần với thực tế cuộc sống – vì phải hàng ngày cọ sát với cả thế giới. Trong đó, hội nghị Thành Đô là hệ quả của một thời kỳ đấu tranh nội bộ kéo dài rất phức tạp, ít nhất là từ những năm cuối 1980s. Đây là thời kỳ chiến tranh biên giới chưa hoàn toàn chấm dứt, Trung Quốc lại vừa mới chiếm thêm 7 đảo và bãi ở Trường Sa năm 1988, đàm phán giải pháp vấn đề Campuchia bế tắc. Cũng thời gian này các nước LXĐÂ trên đà sụp đổ.

Ngay từ đầu Bộ Ngoại giao đã dứt khoát bác bỏ sự can thiệp nguy hiểm của Trung Quốc và đã nhiều lần trình bầy quan điểm của mình trước khi hội nghị Thành Đô họp. Bộ Ngoại giao cho rằng mối nguy bành trướng bá quyền rất lớn, phải kiên trì đường lối độc lập tự chủ của Đảng – trong đó có Nghị quyết 13 của Bộ Chính trị. Chúng tôi hồi đó sống và thở trong luồng tư duy này của Bộ Ngoại Giao!.. Chúng tôi thường nói với nhau: Nghề ngoại giao chúng tôi phải chiến đấu trên 2 mặt trận: Đối ngoại và đối nội. Thuyết phục đối nội không hiếm khi khó hơn thuyết phục đối ngoại…

Đến hôm  nay, riêng tôi vẫn vô cùng tiếc không thực hiện được việc đánh giá hội nghị Thành Đô trên cơ sở khoa học, mặc dù anh Dương Danh Dy và tôi rất quan tâm đề tài này, vì thiếu các tư liệu tin cậy và kiểm chứng được. Anh Hồng Hà, nguyên bí thư Trung ương Đảng và nguyên trưởng Ban đối ngoại Trung ương ĐCSVN là một nhân vật chủ chốt, được tham gia hội Thành Đô từ phút khởi thủy đến phút chót, với rất nhiều chi tiết... Biết vậy, nên trong mấy năm liền trước khi anh Hồng Hà mất, tôi đã vài lần trực tiếp đề nghị anh Hồng Hà giúp việc này, rất tiếc bị khước từ, câu chuyện không thành.

Cũng trong thời gian này, trước khi gởi báo cáo trên (01-05-1990), lấy tư cách cá nhân đảng viên, tôi đã gửi lãnh đạo đảng nhà nước một báo cáo riêng, trình bầy một số đề nghị thay đổi đường lối phát triển đất nước, nêu ra yêu cầu ĐCSVN và chế độ chính trị cần đáp ứng giai đoạn cách mạng mới của đất nước. Nói theo ngôn ngữ hôm nay: Phải cải cách chính trị triệt để!.. Tôi được một người cho biết thủ tướng Phạm Văn Đồng đã đọc, nói sẽ có ý kiến, nhưng phê bình cách tôi đặt vấn đề quyết liệt quá và chưa thuyết phục… Tôi thừa nhận lời lẽ của tôi nhiều chỗ nghịch tai, vì quá bức xúc – đúng hơn là quá thẳng.

Tôi rất tiếc không thể tìm lại được bản sao báo cáo này. Lục lọi các thứ tôi còn lưu trữ được, đều không thấy. Sự việc chẳng qua là để mất một văn bản có ghi rõ tính thời gian lịch sử thôi, còn nội dung của thư này tiếp tục được thể hiện trong các báo cáo khác tiếp theo của tôi và ngày được phát triển thêm của thời sự.

Hay là nội dung báo cáo này  quá nhạy cảm, nên tôi không dám lưu? Tôi không nhớ nổi nữa…

Đọng lại trong tôi của báo cáo này là lời nhắc nhở của thủ tướng Phạm Văn Đồng. Tôi tự răn mình phải giữ mồm giữ miệng hơn – hình như đây là chỗ yếu của tôi – nghĩa là vẫn còn dại!.. Vì thủ tướng Phạm Văn Đồng vốn hiền hòa mà đã phải nhắc nhở thế, là chuyện không ổn rồi! – tôi biết!… Còn nhớ được lời nhắc nhở của thủ tướng Phạm Văn Đồng là tốt đối với tôi lắm rồi.

 

Tháng 5-1990, tôi gửi một báo cáo tiếp dài 23 trang (viết xong tháng 04-1990) với danh nghĩa phục vụ Hội nghi ngoại giao: “Đánh giá lại thách thức và thời cơ”.

Báo cáo này đặt ra câu hỏi và phân tích tại sao chủ nghĩa xã hội đang bị đẩy lùi, nêu yêu cầu phải nhìn rõ bản chất những thách thức bên trong của nước ta và những nguy cơ bên ngoài trong một thế giới phân công lao động thế giới đã thay đổi về bản chất (lúc này cá nhân tôi chưa rõ lắm khái niệm toàn cầu hóa), nước ta không chỉ có nghèo nàn lạc hâu mà còn  ngôn ngữ bất đồng” với kinh tế thế giới, cho nên lững thững đi bộ một mình trên thế giới, đứng bên ngoài con tầu của thế giới!.. Trong một thế giới đã thay đổi rất sâu sắc mà …nước ta đang phải chiến đấu trên một trận địa hầu như ta chỉ có sở đoản, lưu ý không thể dựa vào tư duy ý thức hệ tạo ra được một tập hợp lực lượng mới đất nước đòi hỏi, cần nghiên cứu bản chất 4 cuộc chiến tranh đất nước vừa trải qua để tránh số phận đất nước bị đối xử như một quân cờ và luôn luôn là nạn nhân của sự giành giật giữa các cường quốc,.. (tr.9 và 10)”… Báo cáo cảnh báo nước ta đang để mất những thời cơ lớn. Báo cáo kết luận (1)đất nước phải biết tận dụng lợi thế nước đi sau  (trang 15) để sớm có một chiến lược phát triển mới, (2)phải sớm có một đường lối đối ngoại mới lấy bảo vệ lợi ích dân tộc làm gốc (trang 20, 21); phác họa sơ bộ một số nội dung của 2 chiến lược mới phải có này, trong đó nêu tầm quan trọng phải vượt lên ý thức hệ xây dựng quan hệ mới với Lào và Campuchia với tính cách là 2 quốc gia độc lập có chủ quyền, phải thay đổi chính sách của ta với Thái Lan...

 Theo yêu cầu của lãnh đạo Bộ, tháng 11-1990, tôi gửi một báo cáo 15 trang góp phần tổng kết đối ngoại của nước ta năm 1990. Đánh giá tình hình của báo cáo đi tới kết luận: “cần đặc biệt quan tâm xử lý môi quan hệ quốc gia – quốc gia với tất cả các đối tượng trên thế giới, lấy cân bằng lợi ích quốc gia làm cơ sở…  … …sớm đoạn tuyệt với con đường xin viện trợ và bao cấp, coi kinh tế đối ngoại là mặt trận quan trọng ngoại giao quyết định nhất…” (trang 7…); và từ đòi hỏi này cần có những thay đổi đối nội, phải mở rộng sự tham gia của toàn dân vào quá trình này, lưu ý chỗ nào  không thực hiện được như vậy thì đồng nghĩa bỏ trận địa cho cái xấu và sự can thiệp của bên ngoài…

Báo cáo dành một phần riêng đánh giá quan hệ Việt – Trung, nhìn nhận Trung Quốc là vấn đề khó nhất của nước ta và của cả thế giới, “câu chuyện dạy nước ta một bài học” chưa kết thúc, đặt vấn đề phải tìm cách vượt qua sự thù địch cũng như mọi ảo tưởng ý thức hệ để xây dựng một quan hệ mới với Trung Quốc chứ không phải “chỉ một chiều chăm sóc quan hệ hữu nghị Việt – Trung” (trang 9, 10, 11), đừng sợ không liên minh với Trung Quốc thì mất CNXH, cũng đừng sợ không liên minh XHCN với Trung Quốc thì nước ta bị cô lập – giả thử nước ta có bị làm sao ai dám chắc sẽ được Trung Quốc cứu? Không ai có thể thay ta tự bảo vệ tổ quốc của mình… (trang 9), cần tạo ra tập hợp lực lượng mới trên thế giới, nhưng nhất thiết không đem nước ta ra “làm hàng rào” hay  làm “quân tốt” cho bất kỳ ai… Báo cáo kết luận: “Sẽ không ai để cho chúng ta được lựa chọn trung lập, mà phải tự chúng ta phấn đấu giành lấy sự cân bằng này” (trang 10). Xin lưu ý, báo cáo này viết vào lúc hội nghị Thành Đô 3-4/09/1990 vừa mới bế mạc trước đó gần 2 tháng. Chung quy vẫn cái tội điếc không sợ súng!

Liên quan đến vấn đề Campuchia báo cáo của tôi cho rằng “giải pháp đỏ hay xanh” chẳng có ích lợi gì cho nước ta, mà phải để cho Campuchia tự giải quyết vấn đề của họ, thực sự tôn trọng quyền làm chủ của họ, đừng để họ kéo ta vào; và ta cũng đừng sợ chịu tiếng là “mang con bỏ chợ, mà đòi hỏi vấn đề Campuchia phải là trách nhiệm của cộng đồng quốc tế chứ không phải chỉ riêng của Việt Nam!

Tôi lưu ý: Những quan điểm khác nhau trong nước đang gây ra nhiều khó khăn nghiêm trọng, xây dựng chủ nghĩa xã hội phải kiên trì, theo quy luật, không thể chủ quan duy ý chí… “nên kiên định bài học đổi mới của Đại hội VI.., chủ nghĩa xã hội là mục tiêu, chứ không phải là phương tiện.” (trang 15).

Ngày 02-08-1990 Iraq phát động chiến tranh thôn tính Kuwait, ngày 17-01-1991 Mỹ và liên quân phát động chiến tranh trừng trị Iraq, được Liên hiệp quốc tán thành.  Chiến tranh vùng Vịnh I.

Tôi đứng trước một vấn đề khó xử: Một số luồng tin báo cáo về nước đánh xong Iraq, Mỹ sẽ quay trở lại đánh Việt Nam, sân bay Utapao đã mở cửa trở lại cho không quân Mỹ để xúc tiến mưu đồ này, hải quân Mỹ cũng đang trên đường quay lại đây… Thậm chí còn cho rằng cuộc đảo chính 23-02-1991 là do Mỹ dàn dựng, đưa Suchinda lên làm thủ tướng Thái Lan để phục vụ cho chiến lược mở chiến tranh trả thù Việt Nam…

Người gửi tin có luồng đi riêng, không báo cáo với tôi, song tôi biết nội dung tin gửi về nước. Những gì tôi nắm được, trái hẳn với luồng tin này.

Tôi đánh giá: Hầu như không thể có chuyện Mỹ quay lại đánh Việt Nam một lần nữa, đơn giản là Mỹ đang bị hút vảo những vấn đề khác quan trọng hơn đối với Mỹ, nhất là sự kiện Kuwait bị thôn tính rất nghiêm trọng đối với thế chiến lược của Mỹ ở Trung Đông, bây giờ Đông Nam và vấn đề Việt Nam không còn là câu chuyện nóng đối với Mỹ. Hơn nữa từ sau thỏa thuận Thượng Hải 1972, rồi sau cuộc gặp Đặng Tiểu Bình – Jimmy Carter cuối tháng 1-1972 để xúc tiến chiến tranh ngày 17-02-1979 đánh Việt Nam.., quan hệ Mỹ - Trung ở khu vực lúc này đang nồng ấm… Trên đất Thái Lan những thông tin tôi có được cũng không có gì cho thấy đang rục rịch một cuộc chiến tranh Việt Nam mới… Vân vân…

Nhất là ngày 27-02-1991 tôi đã có một báo cáo riêng về cuộc chiến tranh này, dài 13 trang, cố gắng phân tích mọi khía cạnh của sự vật, nêu lên một số nhận đinh những diễn biến mới có thể xảy ra, đánh giá không có khả năng Mỹ sẽ quay lại đánh Việt Nam, và kiến nghị đối sách.

Nghĩa là tôi có đủ các lý do – cả trên phương diện kỹ thuật – để đánh giá tin báo cáo về nhà của luồng tin trên là không đúng. Nhưng tính chất sự việc quá nghiêm trọng, đặt quốc gia trước chiến tranh hay hòa bình.

Tôi chủ động đi gặp người gửi tin, trao đổi.

Mọi đề nghị hợp tác của tôi, từ cao nhất đến thấp nhất, cùng nhau thống nhất đánh giá tình hình, và cùng nhau báo cáo chung hay báo cáo riêng rẽ về nước… những cách khác,… .., mọi đề nghị tôi đưa ra nhất nhất bị từ chối!

Tôi nói với người đối thoại của mình:

-        Rất tiếc chúng ta không đạt được sự hợp tác nào cả. Vậy tôi sẽ có một báo cáo riêng về nước, bác bỏ từng điểm báo cáo của anh. Tôi có thể đúng, có thể sai, song trách nhiệm của tôi trước quốc gia, tôi phải làm như vậy. Tôi nói trước để anh biết.

Báo cáo về nước đã gửi, chiến tranh vùng Vịnh I đi vào thời kỳ quyết liệt. Một tuần, hai tuần. lâu hơn nữa.., tôi không có hồi âm. Ngày đêm cứ như cá nằm trên thớt: Nhỡ nhận định về Mỹ  của tôi sai thì sao?..

Vài tháng sau chiến tranh vùng Vịnh I kết thúc hẳn.

 Một thời gian nữa.., cũng không thấy cuộc chiến tranh Việt Nam mới…  Sau đó tôi có việc về nước họp, một cán bộ lãnh đạo trong tứ trụ trực tiếp nói với tôi một câu cực ngắn: “Tôi đã đọc báo cáo của anh!”

Tôi chỉ đáp lại một tiếng “Vâng!” cộc lốc, vì bực.

 

         Thời gian chiến tranh vùng Vịnh cũng là thời kỳ đàm phán giải quyết vấn đề Campuchia đi vào giai đoạn chót, Bangkok là một trong những nơi họp chính giữa các bên hữu quan. Là đại sứ tại chỗ, nhiều khi tôi như ngồi trên lửa, vì nội dung đàm phán phức tạp đã đành, song còn vì phía Kmer đỏ (chắc chắn nhiều trường hợp Khmer đỏ chỉ là cái micro của người đứng đằng sau!) thay đổi lập trường xoành xoạch. Có lúc đoàn của ta hay anh Thạch đặt ra cho những người tại chỗ chúng tôi nhiều câu hỏi khó để tìm hiểu. Rất may trong đại sứ quán chúng tôi là một nhóm làm việc có hiệu quả và tinh thần đồng đội cao. Về sự hợp tác hiệu quả này, hôm nay tôi muốn nói lời cảm ơn đặc biệt với anh Nguyễn Quang Dy, người mà hôm nay vẫn đều đều cung cấp cho chúng ta những bài báo rất chất lượng và đáng quý. Hồi ấy anh Dy chịu trách nhiệm mảng các báo chí sở tại và báo chí nước ngoài có mặt ở Thái Lan và các tùy viên báo chí của các nước, tôi đảm nhiệm mạng các đại sứ, những người khác phụ trách những mảng khác. Báo cáo chúng tôi gửi về nước hoặc những nhận định, những đánh giá về mọi lĩnh vực khác chủ yếu được xây dựng trên những kết quả làm việc này – về chiến tranh vùng Vịnh cũng vậy.

         Thực sự là những ngày đêm của dằn vặt, lo âu và chờ đợi.

Vợ tôi rất lo, chỉ thấy tôi đăm chiêu và đôi lúc khó tính nữa. Cứ nghĩ tôi ốm. Tôi giải thích không phải, chỉ hứa khi nào có chuyện gì mới sẽ kể… Nhưng trong lòng cố dẹp lại những câu hỏi làm ngã lòng. Nguyên do chính có lẽ là tâm tư tôi nghĩ khác quá, mà cuộc sống tôi đối mặt chẳng giống tôi suy nghĩ chút nào…

Không phải chờ đến lúc có câu chuyện chiến tranh vùng Vịnh này,  từ lâu rồi những điều chướng tai gai mắt đến với tôi ngày càng nhiều, cái sai cái ác cứ tiếp tục lấn át mãi cái đúng cái thiện. Tôi nghĩ về thân phận đất nước, thân phận mình… Câu chuyện vùng Vịnh này chẳng khác gì tôi được bồi thêm một quả đấm mới, trước đó đã ăn những quả đấm như vậy rồi: Cái sai cái đúng cứ lẫn lộn với nhau như thế và cùng nhau chìm dần trong im lặng, để rồi cuối cùng chỉ còn lại mỗi cái sai ngự trị, hoành hành tiếp!

Cái chế độ chúng ta đang sống là như vậy! Quyền lực đang hành sử với chúng ta như vậy!.. Đấy là tâm trạng thực của tôi nói với tôi trong những đêm mất ngủ. Vợ tôi cũng phải trằn trọc theo, đã lo lại càng lo, mà không hiểu vì sao…

 

Tôi chỉ có những lời an ủi một chiều, để ru vợ ngủ thôi, chứ chẳng nói lên được điều gì!

 

Ngủ đi em

 

Tặng Hiền và những đêm mất ngủ

 

Ngủ đi em, ngủ đi, đừng khóc nữa

Dù đường đời bao nỗi truân chuyên trăn trở

Hãy nghe anh, đừng nặng lời với những đắng cay vất vả…

Đừng trách trời, trách đất, hờn giận anh

Ngủ đi, em yêu dấu cố ngủ đi

Để rồi lại sống, lại yêu, lại cho đời tất cả

Bàn tay ta, trí tuệ ta, và trái tim khao khát của ta

Để cùng nhau say đắm một lời ca… 

 

Ngủ đi em, ngủ đi mà lấy sức

Ngày mai chúng ta lại đứng dậy cùng nhau

Lại mơ ước, cầu nguyện và yêu nhau như thuở trước

Quên hết mọi phiền muộn, bỏ qua mọi tan vỡ…

Ngủ đi em yêu, ngủ đi em

Để chúng ta thôi nức nở trong giấc lành

Để nhịp thở hiền hòa dịu lại tâm hồn anh

Và cho anh tất cả những gì đã mất… 

 

Em yêu, ngủ đi, hãy cố ngủ đi

Một phút thôi, một chợp mắt

Đừng dằn vặt anh, đừng tự làm khổ mình

Những câu hỏi vắt ngang trời đất…

Em yêu ngủ đi, nếu muốn lòng anh bớt nặng

Gánh đoạn trường giằng xé tim anh

Thêm một nỗi em đau, thêm trăm lần anh tê tái… 

 

Ngủ đi em, ngày mai khi thức dậy

Em sẽ hiểu anh hơn

Sẽ lại đón anh trong vòng tay da diết

Sẽ lại nói với anh bao điều tha thiết

“Em vẫn là của anh, mãi mãi là của anh!..”

Ngủ đi em, cho anh nhìn em trong giấc ngủ yên lành… 

 

Em ngủ đi, và anh sẽ nói với em tất cả

Không phải để em nghe, mà chỉ để vợi lòng anh

Nỗi đau không cách gì chia sẻ

Sống chịu một mình, và chết sẽ mang đi một mình

Cuộc đời của anh, tâm hồn anh, ước vọng của anh…

Xin đừng trách anh thiếu lòng chung thủy

Vì yêu em anh giữ cho mình tất cả  

 

Ngủ đi em yêu, ngủ đi, để cho anh kể tiếp

Một số phận, một vần thơ dang dở kiếp người

Một lời nguyền chăng – hay một định mệnh

Sao không dứt ra được như câu chuyện cổ tích ngày xưa

Mẹ vẫn kể thì thầm bên bếp lửa…

Chẳng lẽ trách mẹ cha đã cho ta lòng nhân bản

Chẳng lẽ trách chính ta chót yêu nghĩa đời cao đẹp… 

 

Ngủ đi em ơi, nói sao em hiểu được

Nói lòng anh và khát vọng của đời anh

Mọi đớn đau, hoài nghi và thất vọng

Nguyễn Du đã kể chuyện Kiều

Nhưng ai kể được nỗi lòng anh tan nát… 

 

Ngủ đi em, anh xin em ngủ đi

Vì em là anh, là hiện thân của hy vọng anh còn giữ được

Ngủ đi em yêu, hãy ngủ đi

Và giữ gìn anh trong muôn vàn bão tố…

Anh cầu bốn phương cho giấc ngủ của em

Anh tạ trời tạ đất cho giấc ngủ bình yên

Và em sẽ tìm lại cho anh những nụ cười đánh mất 

 

Ngủ đi em yêu, mình anh thức đã đủ rồi

Khóc làm chi, nước mắt anh đã đầy rồi

Khắp biển khổ vực đau đời giăng mở

Cả niềm đau anh không san sẻ

Sẽ là của em và chỉ riêng em

Khi em hiểu được anh và trở thành chính anh

Ngủ đi em yêu,  vì đối với anh em là tất cả… 

 

Em yêu ngủ đi

Anh sẽ kể nhiều, kể nữa

Kể sự trắng đen đảo lộn giữa ban ngày

Kể chuyện người xưa tìm trăng trong hồ nước

Kể chuyện người nay chỉ thấy hằng nga trong sa mạc

Kể chuyện anh cháy bỏng trong mộng mơ

Suốt cuộc đời chưa viết trọn một vần thơ

Tóc đã pha sương còn u mê vai “chàng ngốc”

Như truyện nước Nga xưa lưu lại tự bao giờ

Bị lừa, và được lừa.., chẳng sao mà hiểu nổi

Ma quỷ xâu xé anh như bầy quạ đói

Anh chỉ còn mỗi trái tim chúng chê bôi vứt lại

Vì vậy anh vẫn yêu mê dại cuộc đời… 

 

Em ơi, nói sao em hiểu nhỉ

Anh không biết trời, không tin thượng đế

Nhưng vẫn cầu xin cho em ngủ nữa đi

Đừng làm đứt đoạn chuyện anh đang kể… 

 

Ngủ đi em yêu cho tâm hồn anh dịu lại

Cho anh kể em nghe những bước đường đời…

 

 

           Còn tiếp


[1] Sau khi mãn nhiễm đại sứ về nước, trong báo cáo của tôi gửi Bô Chính trị ngày 09-051994, tôi chính thức đề nghị xây Camranh thành một khu cảng quốc tê, đi liền với khu công nghiệp, vừa phục vụ quốc phòng, vừa phục vụ kinh tế, chú ý thu hút đầu tư của Mỹ và các nước phương Tây – theo mô hình đã có một số nơi trên thế giới (trang 15).