Những ḍng chảy nước Việt

Nguyễn Thế Hùng

 

Theo Hồi kư Nguyễn Hiến Lê, vào thời Lê mạt, núi Tản Viên bị sét đánh sạt một góc lớn của đỉnh thứ ba. Ngày nay, những hôm trời trong người ta c̣n nh́n thấy hai ngọn của Tản Viên ở giữa và ở bên trái vẫn nhọn và thanh tú, riêng đỉnh thứ ba phía bên phải như bị dao chém vạt đi một góc lớn. Tuy núi Tản Viên vẫn c̣n được gọi là núi Ba V́, nhưng ba cái “v́” ấy không c̣n cân đối nữa.

Tra cứu trong Đại Việt Sử Kư toàn thư, ta thấy rất nhiều năm có mưa lớn, vỡ đê, lụt lội. Nhiều lần sét đánh vào Điện Kính Thiên ngay giữa kinh thành Thăng Long. Và trong suốt chiều dài lịch sử kiến tạo đất Việt th́ mưa lụt là một yếu tố quan trọng bậc nhất. Mưa lũ làm cho tốc độ phong hóa các vùng đồi núi xảy ra mạnh hơn các khu vực khác trên địa cầu. Ḍng chảy của mưa lũ tạo nên một mạng lưới chằng chịt sông ng̣i trên khắp đất nước ta. Mưa lũ cung cấp phù sa cho đồng bằng và bồi đắp các vùng cửa sông ven biển. Mưa lũ là một trong những ḍng chảy chính của nước Việt. Đó là ḍng chảy của sự dư thừa nước mặt.

Ḍng chảy thứ hai là ḍng không khí do băo gây ra. Nước ta mỗi năm chịu hàng chục cơn băo. Mỗi khi có băo th́ ḍng không khí tràn từ biển Đông vào đồng bằng với tốc độ lớn, tạo thành các cơn gió giật cấp 8, cấp 9, thậm chí có khi lên đến cấp 12-15. Băo thường được gọi là đại phong hoặc cuồng phong.  Người ta phải chống băo liên tục trong mùa mưa, nhất là khu vực đồng bằng Bắc Bộ và suốt dọc dải miền Trung. Mưa băo làm ngập lụt, đổ nhà cửa, phá nát ruộng đồng, hoa mầu,…

Lời bài hát của Phạm Minh Tuấn “Đất nước tôi, thon thả giọt đàn bầuTừ thuở c̣n nằm nôi, sáng chắn băo giông chiều ngăn nắng lửa”  đă nói lên những sự đổi thay liên tục và mănh liệt của ḍng chảy nước và khí trên mảnh đất Việt nam.

Bây giờ ta hăy tưởng tưởng một thí nghiệm về hai ḍng chảy đó. Giả sử trong một không gian thí nghiệm giả tưởng trên máy tính có cấu trúc 3D giống hệt như địa h́nh đất nước ta, nhưng trục thời gian có thể co dăn tùy biến. Nếu co ngắn thời gian lại sao cho một năm có độ dài chỉ bằng một giây, th́ t́nh h́nh sẽ như thế nào. Ta sẽ thấy các ḍng chảy của nước và khí vốn thực tế đă rất mănh liệt, th́ trong thí nghiệm giả tưởng c̣n khủng khiếp gấp hàng triệu lần nữa. V́ trục thời gian đă co ngắn từ một năm c̣n một giây, tức là co ngắn lại hơn 31 triệu lần. Tính chất mănh liệt của các ḍng chảy nước và khí thể hiện ở sự liên tục xoay chuyển từ các giá trị cực đại âm sang cực đại dương. Các sinh vật sống trong không gian giả tưởng đó cũng liên tục phải vật lộn với những thay đổi mănh liệt đó. Những cái cây luôn bị lắc từ trái sang phải, thậm chí bị xoắn nhiều ṿng hết thuận lại ngược. Muốn sống cây phải t́m cách thích ứng. Con người cũng vậy, họ luôn phải chống chọi vật lộn với những thay đổi chóng mặt của các ḍng khí và nước.

Thí nghiệm này cho phép ta giải thích một đặc tính cơ bản của  con người Việt nam. Con người Việt nam là những con người có độ thích ứng cao với những hoàn cảnh khác nhau. V́ trong suốt chiều dài lịch sử sinh tồn và phát triển họ luôn phải thích ứng với những thay đổi mạnh và liên tục của mưa, lụt, băo, lũ. Do đó, số lượng người Việt có tính cách lù đù không nhiều lắm.

Tuy vậy, tính cách cực đoan, cuồng tín của người Việt cũng rất mạnh. Cái ǵ tạo nên sự cực đoan và cuồng tín. Đó chính là sự ảnh hưởng của một ḍng chảy khác, ḍng các tư tưởng của Khổng Nho. Lịch sử đă chỉ ra khi nào tư tưởng Khổng Nho thắng thế trong sinh hoạt tinh thần th́ nước Việt lâm vào trạng thái tù đọng, bế tắc, tŕ trệ, chậm phát triển, kém sáng tạo. Một trong những giai đoạn được cho là sáng nhất trong lịch sử là triều Lê Thánh Tông. Tuy vậy, lúc đó mới chỉ là quá tŕnh lên ngôi dần dần của tư tưởng Khổng Nho. Ngay khi nó lên đến đỉnh cao và sau cái chết của Lê Thánh Tông th́ nước Việt bắt đầu vào một giai đoạn tranh chấp và nội chiến mấy trăm năm (nội chiến Mạc-Lê Nam Bắc Triều hơn 100 năm từ  1533 đén 1677, sau đó là Trịnh Nguyễn phân tranh trên 200 năm).

Vậy là song song với hai ḍng chảy vật chất hữu h́nh là một ḍng chảy tư tưởng vô h́nh áp xuống nước Việt từ phương Bắc. Hai ḍng chảy hữu h́nh làm cho con người linh động, sáng tạo, nhanh chóng t́m ra giải pháp hữu hiệu cho những hoàn cảnh khó khăn. C̣n ḍng chảy tư tưởng vô h́nh từ phương Bắc th́ có ảnh hưởng ngược lại. Nó làm cho con người dần xơ cứng, bảo thủ, cực đoan và cuồng tín.

Lịch sử cận đại từ đầu thế kỷ XX là một ví dụ tốt hơn cho nhận định trên. Ḍng tư tưởng Mao-it từ phương Bắc trộn lẫn Mác-Lê từ vài thập niên gần đây ngày càng phát huy tác dụng ḱm hăm sự phát triển của nước Việt Nam.

Tuy vậy, trong lịch sử của ḿnh nước Việt không chỉ tiếp thu duy nhất các ḍng tư tưởng Khổng Nho phương Bắc. Họ c̣n tiếp thu tư tưởng Phật Giáo, tư tưởng Kito giáo… Trong nửa sau thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, song song với sự xâm lăng của Pháp, người Việt c̣n tiếp xúc với tư tưởng khai phóng và công nghệ của  phương Tây. Tiếp thu Phật Giáo, nước Việt đă có một giai đoạn phát triển rực rỡ vào thời Lư Trần. Tiếp xúc với tư tưởng khai phóng phương Tây, người Việt đă có một giai đoạn “tiền phát” trong khoảng nửa đầu thế kỷ 20. Giai đoạn này được gọi là “tiền phát” v́ nó mới chuẩn bị một số điều kiện cần cho sự phát triển. Một trong các điều kiện cần ấy là sự xóa bỏ chữ Nho và thay thế bằng chữ quốc ngữ trong sinh hoạt tinh thần. Giai đoạn “tiền phát” ấy bị chững lại và bị đổi hướng do Thế Chiến thứ II và các cuộc cách mạng sau đó. Sau các biến động chính trị gay gắt trên chính trường Việt nam từ giữa thế kỷ 20, ḍng tư tưởng từ phương Bắc lại thắng thế vào năm 1990 và nước Việt quay lại quỹ đạo cũ.

Gọi là quỹ đạo cũ cũng không hẳn đúng. V́ một trong hai ḍng chảy vật chất đă thay đổi mạnh mẽ. Các con sông đă bị chặn bởi các đập thủy điện. Mối lo chống lũ, chống mưa không c̣n thường trực trong hành vi của con người Việt nam hiện đại. Ḍng chảy thứ hai là gió băo cũng giảm mức đe dọa của nó. V́ các ngôi nhà đă kiên cố hơn, đường giao thông cũng khá hơn. Trong khi đó áp lực tư tưởng phương Bắc ngày càng mạnh mẽ hơn. Tức là ba ḍng chảy đó không đổi hướng mà thay đổi cường độ. Do đó, hành vi của con người trong thí nghiệm giả tưởng của chúng ta cũng thay đổi rất nhiều.

Nhín chung, sự thay đổi hành vi của người Việt đang có xu hướng lờ đờ hơn, thụ động hơn, kém sáng tạo hơn. Mặt khác, các yếu tố chính trị cũng làm cho các hành vi ấy bị chật cứng hơn trong hành động và diễn ngôn.

Xu hướng thay đổi đó là một hiểm họa.

Vậy chúng ta cần làm ǵ trước hiểm họa đó. Nhiều người hy vọng sự thay đổi thể chế sẽ làm cho hành vi chung của người Việt trở nên năng động hơn. Đó là một hy vọng đẹp trong tương lai. Vấn đề là trước mắt chúng ta cần làm ǵ.

Trước hết, chúng ta cần bước ra ngoài môi trường của nước Việt để suy nghĩ. Thực vậy, ta hăy thay đổi cái không gian giả tưởng 3D trong thí nghiệm trên. Ta hăy vẽ không gian 3D trong thí nghiệm mới là toàn thể Trái Đất. Thời gian của thí nghiệm giả tưởng không phải là 4000 năm của lịch sử Việt Nam, thay vào đó là thời gian được tính từ khi loài người (Homo Sapiens) bắt đầu rời Đông Phi để lan ra toàn thế giới. Tức là thời gian tính từ khoảng thời đồ đá trở về đây, tức là khoảng vài trăm ngàn năm. Mục đích đặt ra trong thí nghiệm mới này là đi t́m hành vi phổ quát nhất của con người, không phân biệt là người Việt hay dân tộc nào khác trong tiến tŕnh lịch sử của nhân loại, để t́m ra cái xu hướng chủ đạo trong hành vi nhân loại, từ đó mà người Việt có thể noi theo.

Hăy xét bầy người nguyên thủy cách đây vài trăm ngàn năm kể từ khi họ phát minh ra cách giữ lửa và biết làm ra các công cụ bằng đá. Kể từ ngày đó, loài người đă dần dần phát minh ra rất nhiều tiến bộ như đẽo gọt cung tên, giáo mác, kèo cột, nhà cửa, mái chèo,…. bằng các mảnh đá sắc, các con dao bằng đồng hay sắt, đến việc họ làm ra máy hơi nước, động cơ điện, máy tính hay điện thoại di động, các tàu con thoi lên mặt Trăng hay tên lửa vượt đại dương,…. Những tiến bộ ấy có chung một quá tŕnh: phát minh, lan tỏa, hoàn thiện. Các hành vi đó có thể gộp chung vào một khái niệm gọi là áp dụng tiến bộ. Các tiến bộ ấy có mục đích chung là làm cho lao động và cuộc sống của loài người ngày càng hiệu quả hơn và tiện nghi hơn. Các tiến bộ ấy không chỉ giới hạn trong phạm vi các công cụ và thiết bị, mà c̣n ở cả các lănh vực thuộc về biện pháp và thể chế tổ chức xă hội. Như vậy, hành vi phổ quát của nhân loại là không ngừng sáng tạo và áp dụng các tiến bộ. Hành vi ấy không phân biệt không gian địa lư, dân tộc hay thời đại. Chỉ có tốc độ và quy mô khác nhau tùy thời và tùy nơi. Quy luật chung là khi nào hành vi sáng tạo và áp dụng tiến bộ chậm chạp và nhỏ lẻ th́ sự phát triển kém. Ngược lại, khi nào và ở đâu mà hành vi sáng tạo và áp dụng tiến bộ nhanh chóng và rộng răi th́ tại đó sự phát triển nhanh chóng và mạnh mẽ. Ta gọi hành vi phổ quát ấy của nhân loại là chủ nghĩa tiến bộ.

Bất cứ khi nào và ở đâu có sự ḱm hăm hoặc đi ngược lại tiến bộ th́ con người bất hạnh và xă hội tù đọng. Lối làm việc cha chung không ai khóc là một lối làm việc đi ngược lại hành vi sáng tạo và áp dụng tiến bộ, đi ngược lại chủ nghĩa tiến bộ. Có một thời người Việt nam chúng ta đă áp dụng kế hoạch hóa sản xuất, lấy kinh tế nhà nước làm chủ đạo. Thời ấy chính là thời cha chung không ai khóc. Di họa của thời ấy đến tận hôm nay vẫn chưa được rũ bỏ hết. Tại sao chưa? V́ chúng ta chưa thấu hiểu chủ nghĩa tiến bộ.

Chừng nào chúng ta thấu hiểu chủ nghĩa tiến bộ, thay thế ḍng tư tưởng Khổng Nho và Mác-Lê bằng ḍng tư tưởng của chủ nghĩa tiến bộ th́ nước Việt nam sẽ bước vào một giai đoạn phát triển mới: nhanh chóng và mạnh mẽ.

Trong khi Đảng Cộng Sản c̣n say mê với ḍng tư tưởng Mác-Lê, th́ mỗi cá nhân người Việt nên bắt đầu với ḍng tư tưởng tiến bộ. Thậm chí, đối với các đảng viên ĐCS họ cũng có thể áp dụng tiến bộ bằng cách thay đổi lề lối làm việc, sao cho hiệu quả hơn, tử tế hơn. Những cá nhân khác tùy hoàn cảnh và vị trí của ḿnh hăy áp dụng các tiện bộ. Các tiến bộ ấy dù nhỏ cũng không nên coi thường. Ví dụ, cư xử  thế nào cho đắc nhân tâm là những tiến bộ đơn giản nhất mà ai cũng có thể áp dụng được ngay lập tức và miễn phí. Chế tạo những vật liệu/hóa chất cơ bản cho các ngành dệt may, giấy, thực phẩm, nông nghiệp, xây dựng… là những tiến bộ khó hơn một chút đ̣i hỏi tŕnh độ các kỹ sư.  Hoặc chế tạo ra các robot phục vụ ở tiệm ăn, khách sạn, sân ga,… là những tiến bộ ở tầm các tổng công tŕnh sư. C̣n sửa chữa những lỗi hệ thống của thể chế sao cho nhân dân có hạnh phúc hơn, tự do hơn là các tiến bộ ở tầm lănh đạo quốc gia.

Nếu mỗi người Việt nam đều ư thức được chủ nghĩa tiến bộ, họ luôn săn lùng, sáng tạo và nhiệt thành áp dụng tiến bộ th́ ḍng tư tưởng ấy chắc chắn sẽ lấn át ba ḍng chảy đang ngự trị nước Việt suốt mấy ngàn năm qua và chúng ta sẽ bước vào một giai đoạn phát triển mới vô cùng rực rỡ trong lịch sử dân tộc ḿnh.

Nguyễn Thế Hùng.

Tây Hồ, Hà Nội, ngày 4 Tết Mậu Tuất.

 Tác giả gửi cho viet-studies ngày 19-2-18