Lược bày những sự thật
khác với bài nói của ông Nguyễn Văn Hoàn

 

Nguyễn Huệ Chi

 

 

Thưa anh Trần Hữu Dũng,

 

Tôi cứ ngỡ sẽ không còn phải phiền đến trang mạng của anh để đăng những chuyện xung quanh bộ sách Thơ văn Lý-Trần mà Viện Văn học công bố cách đây trên dưới 40 năm, không ngờ lại vẫn cứ phải phiền anh một lần nữa – hy vọng đây là lần cuối. Bởi hôm nay mở máy tính, lướt xem các trang mạng, đến trang viet-studies thì gặp bài của ông Kiều Mai Sơn ghi lại lời ông Nguyễn Văn Hoàn – một đồng nghiệp của tôi thuở ở Viện Văn học – trò chuyện với ông này về những điều liên quan đến cá nhân tôi và bộ sách nói trên. Vì phát biểu của ông Hoàn trong chỗ riêng tư lại có động đến nhân cách tôi, hơn nữa xét cách nói không phải ngẫu nhiên, tiện thể thì nói, mà nói rất nghiêm túc, nên buộc tôi phải trả lời. Nhưng ông Hoàn đã quá cố, không thể mời ông dậy đối thoại được nữa. Còn ông Kiều Mai Sơn chỉ là người đưa chuyện, chẳng dây mơ rễ má gì với tôi. Vì thế, hay hơn hết, tôi nghĩ, xin mượn anh làm một thính giả để tôi có đôi lời phân giải (xin dùng chữ Anh ở tất cả những chỗ phải nhắc đến anh), qua đó giúp công luận nhìn rõ hơn vài điều về bản thân mình. Tôi cũng không muốn đem những chuyện tỉ mẩn trong nhà mình ra kể, nhưng không dưng ông Hoàn lại đề cập, đành phải bỏ thói quen lâu nay vẫn giữ, cũng là bất đắc dĩ, rất mong bạn đọc cảm phiền.

 

1. Theo tôi, những gì ông Nguyễn Văn Hoàn nói về việc biên soạn Thơ văn Lý-Trần thì chẳng đáng bàn thêm dài dòng. Ông ấy không trực tiếp bắt tay làm bộ sách nên nhận xét sai lạc cũng là dễ hiểu, phản bác lại thực chẳng để làm gì. Vậy, chỉ xin Anh cho tôi được gói gọn trong hai điểm:

 

Thứ nhất, ông Hoàn cho rằng phần Khảo luận hơn 150 trang của tôi in ở đầu bộ sách “thì những ý chính và chỉ đạo là Huệ Chi chịu khó nghe và ghi chép của cụ Đặng Thai Mai với cụ Vân rồi viết thành bài”. Nếu quả có điều đó chắc hẳn tôi rất mừng chứ không việc gì phải cãi, vì chứng tỏ mình là người có duyên mới nhận được sự “truyền thừa” của hai cụ. Khổ nỗi, cụ Mai tuy là một trong hai người chỉ đạo và duyệt bộ sách, lại không hề giảng giải về thơ văn Lý-Trần cho chúng tôi một buổi, một giờ nào cả, cả ở lớp Đại học Hán học cũng như ở trong Viện. Còn cụ Vân ở tổ Hán Nôm thì tôi có biết, có được nghe cụ phát biểu một đôi lần khi họp với nhóm biên soạn Truyện Kiều, nhưng không từng giao thiệp. Năm 1965, toàn Viện đi sơ tán lên Hà Bắc và mở lớp Đại học Hán học, riêng tôi tuy là sinh viên bắt buộc của lớp nhưng lại được giao ở lại Hà Nội lo xong số Tạp chí Văn học kỷ niệm 200 năm sinh Nguyễn Du ra mắt vào tháng 11 và viết bài “Tìm hiểu thơ chữ Hán Nguyễn Du” trong số này. Lúc đã xong xuôi, lên tham gia lớp học vào đầu năm 1966 thì nghe nói cụ đã về hưu, rời bỏ nơi sơ tán của Viện về xuôi, và không còn một lần nào quay lại. Mãi đến tháng 11 năm 1968, thi xong kỳ thứ nhất khóa học 3 năm tôi mới được Viện trưởng trao quyết định phụ trách Nhóm Lý-Trần, trước khi cả Viện chuyển về Hà Nội. Sau đó, sang đầu 1969 Nhóm Lý-Trần mới thành lập. Hỏi từ đấy tôi còn có cơ hội nào để tiếp xúc với cụ Vân mà xin chỉ giáo về những “lý thuyết văn học Lý-Trần” do cụ đúc rút được, nếu có? Giá thử có đi tìm cụ để hỏi thì cũng chỉ trong một vài buổi chứ đâu dám đến nhà các con cụ ngày này tháng khác quấy rầy, hơn nữa lại chẳng phải là việc chính thức tại Viện (ai bắt buộc được người già đến Viện khi họ đã về hưu?) thì ông Hoàn làm sao nắm được? Nghe ông Hoàn khẳng định chắc nịch tôi có hơi ngơ ngác, nhưng rồi nghĩ lại, do việc ai người ấy biết, ở tuổi ông trí nhớ về người xung quanh cũng có thể không còn minh mẫn, nên ông đã lầm lẫn mối quan hệ cộng tác nhiều năm giữa ông với cụ Vân trong việc làm Truyện Kiều sang chuyện tôi “thỉnh giáo cụ Vân” mất rồi!

 

Sang việc thứ hai, ông Hoàn có ý mai mỉa: “Còn bộ “Thơ văn Lý Trần” thì nhiều người làm. Sau này ông Huệ Chi có hơi lạm dụng công của mình ở trong đó”. Tôi đồng ý với lời ông, xác nhận Tập I và Tập II Quyển Thượng Thơ văn Lý-Trần là “do nhiều người làm” (như tôi đã trả lời ông Boristo Nguyen, cùng một ý ấy). Nhưng tôi lại tự hỏi: không biết ông Hoàn nói tôi “hơi lạm dụng công của mình trong đó” là muốn ám chỉ cái gì đây. Vì dẫu phải quán xuyến rất nhiều việc, tôi cũng chỉ ký tên dưới các bài dịch của mình hệt như người khác, đứng tên trong nhóm biên soạn theo trật tự a, b, c hệt như người khác, và chỉ ghi thêm trách nhiệm chủ biên của mình ở dưới hàng tên nhóm biên soạn nữa thôi. Vậy có gì là “hơi lạm dụng”? Thậm chí ở Tập I, sau khi đã duyệt xong đâu đấy thì cụ Đặng Thai Mai có đưa cho đọc một bài “Mấy điều tâm đắc về một thời đại văn học” do cụ viết. Chúng tôi đều thấy bài viết ngắn gọn mà cô đúc nên xin phép cụ cho in vào đầu sách, đặt trước phần Khảo luận của tôi. Cụ rất thoải mái, tỏ ý bằng lòng. Nhưng bản thân tôi tự nghĩ, đã đưa bài cụ làm lời đề dẫn mà còn để tên mình chủ biên thì thực không phải đạo. Cho nên, trước khi chuyển sang nhà xuất bản tôi đã kịp xóa tên mình làm chủ biên đi. Sau 3 năm in xong, khi nhận được sách, chính cụ Mai cũng có ý thắc mắc, không hiểu vì sao, hay vì cụ mà tên chủ biên lại bị bỏ (cụ có gọi điện hỏi tôi). Nếu ông Hoàn còn sống tôi sẽ khuyến cáo ông mở lại Tập I xem điều tôi nói đúng hay không đúng. Phải chăng những nhận xét có vẻ như bôi bác của ông Hoàn đối với tôi là do ông chủ quan không mở sách ra ngó lại, để nhìn cho rõ những căn cứ xác thực phơi bày trên sách?

 

 

Bìa giả Tập I Thơ văn Lý-Trần, 1977

 

Các chuyện khác nữa cũng đều đại loại như trên. Cho nên, tôi hứa với Anh sẽ không nói lại ở đây những điều đã nói trong bài phúc đáp ông Boristo Nguyen. Nếu bạn đọc có gì cần tra cứu xin mời tìm vào đường link sau là đủ: http://www.viet-studies.net/NguyenHueChi_vs_Boristo.html

 

 

2. Bước vào vấn đề chính – chuyện nhân cách cá nhân – xin được lần lượt điểm qua từng việc ông Hoàn đưa ra làm ví dụ nhằm chỉ trích tôi là người “quay quắt trong thời tiết chính trị hiện nay”. Tôi chỉ nêu lên với Anh dưới hình thức một vài câu hỏi trực tiếp hay gián tiếp, để Anh thử đặt mình vào địa vị ông Hoàn, xem nên trả lời tôi thế nào thì thỏa đáng. Thế thôi.

 

a. Ông Hoàn cho biết: “có 1 bài, cậu [HC] trả lời trên báo, cậu nói 1 cách tự hào là cả gia đình cậu không ai vào Đảng cả, không ai đảng viên cả, và lấy điều không đảng viên là cái vinh quang trong thế giới tự do”. Nếu ông Hoàn còn sống thì hư thực ra sao chuyện này sẽ rất dễ minh định, vì chỉ cần hỏi ông bài báo tôi viết có tên gì, xuất xứ từ báo hoặc trang mạng nào, là đủ “ba mặt một lời” rồi. Tiếc rằng ông Hoàn đã chết, và tôi cũng đã dùng cụm từ ông nói đem tra “gu gồ” mà tuyệt nhiên không thấy. Đành chỉ có thể thổ lộ với Anh, tôi là anh cả trong một gia đình có 5 anh em, trong đó 3 em đều là đảng viên (Nguyễn Du Chi ở Viện Mỹ thuật, Nguyễn Tộ Chi ở Sở Thủy lợi TP HCM, Nguyễn Ái Chi ở Trường ĐH Thương mại HN). Ba người em ấy lại cũng là những người có chút học thức, một người là Phó giáo sư nghiên cứu mỹ thuật, hai người nữa là Kỹ sư, và cho đến nay một người đã mất, hai người còn sống đã về hưu, nhưng chưa một ai đốt bỏ thẻ đảng. Nay xin anh hãy bình tâm phán xét, là anh cả, tôi có thể không dưng liều lĩnh vứt hết uy tín người anh cả của mình trước các em để nói dối với báo chí rằng nhà tôi không có ai là đảng viên, để mà “tự hào” về một điều gì đó, được hay không? Làm thế tôi không sợ các em khinh rẻ, không thèm nhìn mặt mình nữa sao? Dẫu là người từng gặp không ít vấp váp trong trường đời, riêng về phát ngôn không chỉ tôi mà cả mấy anh em chúng tôi vẫn thường tự lấy làm răn về câu nói của Khổng Tử “Nhất ngôn ký xuất tứ mã nan truy  Một lời đã nói ra, xe bốn ngựa đuổi theo không kịp mà người bố dạy cho từ nhỏ.

 

b. Cũng để làm rõ thêm “sự quay quắt chính trị” của tôi, ông Nguyễn Văn Hoàn còn dẫn chứng, bố tôi – Nguyễn Đổng Chi – “không phải là người không thèm vào Đảng” mà  cũng xin vào Đảng nhưng người ta không kết nạp, dù người ta vẫn trọng thị ông là một trí thức làm việc nghiêm túc. Rất lạ lùng là chưa bao giờ và ở đâu tôi đã nói bố tôi “không thèm vào đảng”. Nói thế sao được, bởi, thân phụ tôi vốn từ lâu lắm rồi đã là… một đảng viên. Sau khi ông mất, trên báo chí đã có người viết về điều này. Cụ thể là ông Nguyễn Chung Anh, một người hoạt động cùng thời với bố tôi trước 1945, là tác giả cuốn Hát ví Nghệ Tĩnh, sau này là Vụ trưởng Vụ đối ngoại Bộ Nội thương. Năm 1984 bố tôi qua đời, ông Nguyễn Chung Anh viết bài Nguyễn Đổng Chi nhà văn, nhà khoa học, đăng trên Tạp chí Văn học, có đoạn chỉ rõ: sau hai tháng tham gia tự vệ Thủ đô trong những ngày đầu cuộc kháng chiến toàn quốc, “Trở về lại khu IV, ông [Đổng Chi] sẵn sàng nhận bất kỳ công việc gì mà trên giao phó, từ việc đi trồng trẩu tại nông trường Bà Triệu (Nghĩa Đàn), đến công tác Chánh văn phòng Ban Kinh tài Liên khu ủy IV, cho đến Giám đốc NXB Dân chủ mới Liên khu IV. Còn nhớ thời kỳ ở Nông trường Bà Triệu, ông phụ trách thanh niên. Đêm đêm ông đã đi ngựa hàng chục cây số vào các làng bản trong rừng dạy bình dân học vụ cho đồng bào Mường [… ] Ông được kết nạp Đảng vào cuối năm 1947, cũng tại nơi rừng núi này(4)”. Cũng nói thêm, sau thời gian làm Chánh văn phòng Ban Kinh tài Liên khu ủy IV và Giám đốc NXB Dân chủ mới LK IV, cuộc đời bố tôi đã có một sự rẽ ngoặt. Cùng với anh trai (Thứ trưởng Bộ Y tế) và em trai (Quản đốc Xưởng giấy Đông Nam ở Hà Tĩnh) cả ba đều bảo nhau xin nghỉ công tác, trở về quê vào năm 1953, khi biết tin bà Nguyễn Thị Năm bị tử hình trong Cải cách ruộng đất ở Thái Nguyên. Rồi khoảng một năm sau khi về, gặp cuộc CCRĐ đợt V ở quê nhà, ông lại bị quy thành phần địa chủ và khai trừ khỏi đảng. Chính vì lẽ đó, khi bài viết của tác giả Nguyễn Chung Anh được đăng lại trên nhiều sách và báo, như Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam in lần thứ 7 (1993), lần thứ 8 (1999), lần thứ 9 (2015), hay Văn hóa Nghệ An (năm 2015 – nhân 100 năm sinh Nguyễn Đổng Chi)…, để bạn đọc khỏi hiểu lầm, tôi đã mạnh dạn thêm một dòng chú thích ở dưới trang có đoạn vừa trích dẫn: “Đến năm 1954, trong phong trào Phát động giảm tô và CCRĐ đợt 5 ở Nghệ-Tĩnh, vì gia đình bị quy là địa chủ, Nguyễn Đổng Chi bị đưa ra khỏi Đảng (chú thích của con trai tác giả). Ở đây nữa, chỉ mong Anh cân nhắc để hiểu cho cái tâm của tôi là người con, không thể nói sai sự thật khi đưa các thông tin về bố mình.

 

 

Kho tàng truyện cổ tích VN, Tập I, in lần thứ 8, NXB GD, 1999; tr 28

 

 

 

 

Kho tàng truyện cổ tích VN, Tập I, in lần thứ 8, NXB GD, 1999; tr 29

 

 

c. Cũng để làm bằng chứng tôi là người “quay quắt trong thời tiết chính trị”, ông Hoàn lại còn thông báo với KMS rằng chính tôi – Nguyễn Huệ Chi – miệng nói không thèm vào đảng, mà kỳ thực “Chính cậu đó muốn vào Đảng lắm. Cậu làm đơn xin vào Đảng. Ở Viện, Huệ Chi công tác lâu năm, nó có tha thiết vào Đảng thì cũng chấp nhận, tổ Đảng đồng ý. Hai người giới thiệu là bà Băng Thanh [tức PGS.TS Trần Thị Băng Thanh – KMS] và tôi. Băng Thanh là người giới thiệu thứ hai, còn tôi làm việc với Huệ Chi lâu thì tôi là người giới thiệu thứ nhất”. Ông nói thêm: “Ra chi bộ nó bác thẳng thừng: Tư cách như thế này chưa được. Hai người giới thiệu bọn tôi phải đề nghị xin rút lui lần sau để bồi dưỡng thêm. Và lần sau không bao giờ xảy ra nữa”. Lại một lần nữa tôi phải ngạc nhiên: ô hay, tôi đâu có giấu chuyện mình từng hụt vào đảng (giấu cốt để chứng tỏ “mình không thèm vào đảng”, hoặc “vinh quang trong thế giới tự do”) như ông Hoàn bêu riếu? Sáu năm trước thời điểm diễn ra cuộc  trò chuyện giữa NVH và KMS, tôi đã viết lại kỷ niệm “phấn đấu vào đảng” của chính mình trong bài Những năm tháng với Phong Lê – bạn tôi và là Viện trưởng Viện Văn học từ 1990 đến 1995 – in vào cuốn sách Phong Lê & chúng tôi do người con gái của anh biên soạn, và cũng đã đăng trên talawas ngày14-6-2008 rồi. Đoạn đó như sau: “Đến chuyện vào Đảng cũng thế, mãi năm 1983 tôi mới được nhất trí kết nạp, từ Chi bộ Viện Văn học đến Đảng ủy UBKHXH đều tán thành một trăm phần trăm. Vậy nhưng khi đưa lên Thành ủy HN tôi bị bác vì có đơn khiếu nại. Thế này thì đành là chịu, đến Phong Lê và Băng Thanh là bạn thân nhất cũng vô kế khả thi. Nguyên nhân vì đâu? Một Ủy viên thường vụ Đảng ủy UBKHXH, người viết những lời nhận xét nhiệt tình đối với tôi, sau đó có gọi điện bảo riêng: “Anh nên xem lại mình xem, có thể là trong chuyên môn bướng bỉnh quá cũng không nên”. Tôi biết chứ, ngay trước đấy vừa xẩy ra vụ “Hý trường tùy bút” xôn xao cả giới nghệ thuật. Trong cuộc hội thảo trang trọng về Đào Tấn ở Quy Nhơn, một mình tôi dám cả gan phơi bày sự giả mạo của một văn bản mà Tỉnh ủy Nghĩa Bình vẫn đinh ninh là “đặc sản vô giá” của đất Nghĩa Bình. Tôi “không có tính đảng” trong cái tạng con người mình là đúng quá đi rồi”.

 

 

Sách Phong Lê & Chúng tôi, NXB Hội Nhà văn, 2008; tr. 57

 

Thế đấy, điều ông Nguyễn Văn Hoàn nói tôi cố ý che đậy thì chính tôi đã phơi bày ra trong sách và cả trên mạng. Tôi có sợ người khác nói mình là người từng có nguyện vọng vào Đảng, và từng được xét kết nạp đảng đâu? Chỉ có điều, giữa sự trình bày của ông Hoàn và của tôi có một chỗ chênh nhau. Trong khi ông Hoàn nói: tổ đảng đưa ý kiến kết nạp tôi lên chi bộ “bị nó bác thẳng thừng”, thì những gì tôi nắm được là danh sách kết nạp tôi đã lên đến Thành ủy Hà Nội, rồi có thư gửi lên khiếu nại nên “đành dừng ở đấy”. Hai người là Bí thư chi bộ Bùi Công Hùng và Thường trực Đảng ủy Phạm Duy Hiển bấy giờ có trực tiếp gặp tôi báo tin, đưa cho xem nghị quyết kết nạp của Chi bộ Viện và lời phê chuẩn của Đảng ủy UBKHXH, để nếu thấy những khiếu nại về mình không thỏa đáng thì tôi có quyền viết thư đến Thành ủy trình bày lại, nhưng tôi đã khước từ. Gần đây, tôi cũng có hỏi lại PGS Trần Thị Băng Thanh, người giới thiệu thứ hai và là tổ trưởng đảng thuở đó, hiện đang minh mẫn. Chị ấy hồi đáp rằng thông tin của tôi đúng. Chị còn nói thêm: “Nghị quyết của Chi bộ đã gửi lên trên”; “Chắc anh Hoàn quên, nhưng anh Hoàn là người giới thiệu thứ nhất kia mà”. Tôi cũng không rõ vì sao ông Hoàn lại quên, song hẳn Anh cũng thấy, ở trường hợp này, sai một ly đi một dặm.

 

3. Trước khi đi vào phần kết, xin được chốt lại một lần nữa những nhận xét cụ thể của ông Nguyễn Văn Hoàn về tôi. Nguyên văn ông ấy quy kết cho tôi là “quay quắt trong thời tiết chính trị hiện nay”. Thì ra ông bảo tôi “quay quắt”, vì cho rằng tôi đã thay đổi quan điểm nhìn nhận các vấn đề học thuật cũng như xã hội hiện thời, xét theo lăng kính của ông. Ông Hoàn trao đổi với KMS vào ngày 20-4-2014. Tôi tự suy ngẫm: Từ sau “đổi mới” cho đến thời điểm 2014, tôi đã làm những việc gì khiến ông Hoàn phải nặng lời và buộc tôi vào một thái độ chính trị mà với ông là không đứng đắn? Không khó để tôi tìm ra câu trả lời. Có 6 việc tôi đã làm cho đến 2014, gây nên những chấn động, dù lớn dù nhỏ, đù dở dù hay.  1. Đó là việc tôi đề xuất Hội thảo “Đổi mới nhận thức và phương pháp trong khoa học lịch sử và trong nghiên cứu văn học” cho toàn Viện vào đầu những năm 90; 2. Đó cũng là việc tôi đề xuất tiếp Hội thảo nhân 75 năm Nam phong tạp chí năm 1992; 3. Là bài báo tôi viết “Vài cảm nhận về văn học hải ngoại” đăng Tạp chí văn học số 2-1994; 4. Là tham gia kiến nghị dừng thiêu hủy tập Trần Dần Thơ gửi lên Bộ Thông tin Truyền thông và lên Quốc hội năm 2008 mà tôi là một trong 7 người khởi xướng; 5. Là hàng loạt kiến nghị do tôi và hai người nữa – nhà giáo Phạm Toàn và GS Nguyễn Thế Hùng – đề xuất, soạn thảo và trực tiếp gửi đi trong các năm 2009-2010, đòi hỏi Chính phủ và Quốc hội dừng ngay việc mời Trung Quốc sang khai thác bauxite ở Tây Nguyên; 6. Là những cuộc xuống đường chống Trung Quốc xâm chiếm biển đảo Việt Nam, diễn ra rầm rộ trong nhiều năm mà tôi đã cùng nhiều trí thức và quần chúng tham gia tại Hồ Gươm cũng như tại vườn hoa Lê-nin trước Sứ quán Trung Quốc, từ 2011 đến 2013. Ông Hoàn chỉ trích tôi không phải vì tôi thay đổi (đổi mới mà khư khư cách nghĩ cũ liệu có được không?), mà ông thừa biết, ngay từ đầu chỗ đứng của ông và tôi đã đối lập nhau trong những sự kiện trên đây. Tôi tôn trọng ông, chưa từng hạ một lời phẩm bình hay chê trách gì ông. Về phía tôi, tự xem đi xét lại cũng không thấy có gì sai khi quyết tâm thực hiện các việc mình đã nung nấu và lựa chọn. Còn hơn thế, với thời gian, tôi ngày càng nghiệm ra con đường mình theo đuổi từ bấy đến nay trong tư cách một trí thức độc lập, là đúng đắn. Cuộc hội thảo đổi mới phương pháp nghiên cứu năm 1990 gây được tiếng vang trong giới khoa học xã hội, ngay đến Chủ nhiệm và Phó chủ nhiệm UBKHXH cũng đều về dự, tuy tôi lên tiếng phê phán nặng nề “chủ nghĩa công lợi” làm chính trị hóa đến trì trệ các ngành khoa học lịch sử, nhưng không một ai trong cuộc phản bác, mà trái lại, còn có những bài viết kế tiếp hưởng ứng, tán đồng. Mặc dù bài báo “Vài cảm nhận về văn học hải ngoại” của tôi sau khi in ra trong đầu năm 1994 có bị cấp trên “đánh động”, và Tòa soạn Tạp chí văn học phải theo lệnh gửi 30 số có đăng bài ấy lên cho các vị quan chức Ủy viên trung ương chuyên trách xem lại, tôi vẫn đinh ninh con đường giao lưu, hòa hợp giữa các nhà văn trong ngoài nước là một xu thế phát triển hợp lý hợp tình; nếu được thực hiện trên một tinh thần cởi mở, thiện chí, chắc hẳn nó chỉ có lợi cho việc nâng cao sức mạnh dân tộc. Việc phản kháng thiêu hủy tập thơ Trần Dần năm 2008 cũng đã buộc Bộ TTTT năm ấy phải rút bỏ lệnh chỉ phản văn hóa của chính quyền, đánh dấu thắng lợi đầu tiên của tiếng nói dân sự hướng tới một thái độ hành xử nhân văn hơn cho người cầm quyền hiện hành. Còn phong trào kiến nghị dừng khai thác bauxite ở Tây Nguyên thì đã thu hút được sự đồng tình của hàng chục nghìn người ký tên, trong đó có không ít những trí thức tên tuổi từng suốt một đời đi theo Đảng. Hiện trạng thua lỗ trầm trọng và phá hoại môi trường, phá hoại an ninh, phá hoại nền văn hóa độc đáo của các cộng đồng thiểu số cư ngụ lâu đời trên “mái nhà Đông Dương”, do khai thác bauxite bằng mọi giá ở Tân Rai và Nhân Cơ gây ra, đã được các nhà khoa học hàng đầu, thông qua báo chí nhà nước phản ánh tường tận, như những lời cảnh báo rất nghiêm, đồng thời đánh dấu một nỗi bức xúc chỉ ngày càng dâng cao chứ không thuyên giảm. Tất cả, đều cho thấy sự xác đáng trong chủ kiến và hành động của tôi.

 

Tôi tôn trọng lập trường đối nghịch của ông Nguyễn Văn Hoàn còn với một tinh thần cởi mở, đàng hoàng, trong khu xử với nhau. Xin dẫn ra một việc có thể làm chứng cho sự trước sau như một cái tinh thần đó của mình. Năm 1992, tôi nẩy ra sáng kiến tổ chức cuộc hội thảo khoa học nhân 75 năm ngày ra đời tạp chí Nam phong do Phạm Quỳnh làm Chủ bút (1917-1992). Hơn hai năm trước, một thế hệ lãnh đạo mới của Viện Văn học lần đầu tiên đã được bầu lên bằng phiếu kín (trở về trước đều là chỉ định từ trên xuống và cũng rất tiếc đến các khóa sau việc bầu cử đúng nghĩa lại bị bỏ) – tôi được giữ chức danh Chủ tịch HĐKH Viện cũng là kết quả của phiếu bầu. Tôi đề xuất tổ chức hội thảo Nam phong là đứng trên cương vị này, được cả Viện trưởng, Viện phó và HĐKH Viện nhất trí tán thành. Tôi không thấy ai trong Viện phản đối, ngoại trừ ông Hoàn đáng lo hơn cả, bởi ông vẫn giữ quan điểm “Quỳnh Vĩnh đều là tội nhân của lịch sử”. Nhưng tại các cuộc sinh hoạt ở Ban và Viện, ngay khi tôi trực tiếp gặp hai ông bà để trình bày định hướng và chương trình hội thảo, dù vẫn phê phán Phạm Quỳnh gay gắt, ông không hề bày tỏ một ý kiến nào ngãng ra, nên tôi rất yên tâm. Cá nhân tôi chỉ nghĩ, tạo điều kiện cho học giả các trường đại học và các nơi đến trao đổi thật khách quan, về các mặt “công” và “tội” của một nhà văn hóa nổi tiếng như Phạm Quỳnh, nhất là từ góc độ học thuật vượt lên khỏi góc nhìn chính trị, là việc mà một trung tâm khoa học như Viện Văn học rất nên làm. Lời đề dẫn của tôi trước sau không chệch ra ngoài phương hướng do tôi và HĐKH thống nhất. Cả trong và ngoài Viện đều hưởng ứng viết bài rất đông. Vậy mà, bất ngờ đêm trước ngày hội thảo, có điện thoại từ cấp trên gọi xuống yêu cầu stop. Cuộc hội thảo vì thế đành phải bỏ dở.

 

Ai đúng ai sai? Tôi tin rằng công luận trong ngoài Viện đã, đang và sẽ còn phán xử. Chỉ muốn qua Anh gửi đến bạn đọc một lời tâm sự cuối cùng: rằng ngay trong những công việc chuyên môn có sự khác biệt không thể nhân nhượng về quan điểm, chưa bao giờ tôi làm một việc gì không phải với ông Nguyễn Văn Hoàn.

 

Xin cảm ơn Anh và quý bạn đọc.

 

Nguyễn Huệ Chi

 

 Tác giả gửi cho viet-studies ngày 25-7-18