Kỷ niệm 50 năm ngày mất của nhà văn  NGUYỄN NGỌC TẤN – NGUYỄN THI (1968-2018).

        

NGHĨ TRÊN NHỮNG NIỀM ĐAU

Ngô Thảo

       Niềm đau này xin dấu dưới thịt da (Thơ  Thu Bồn)

      Những nét chính vể tiểu sử và tác phẩm của Nhà văn Liệt sĩ Nguyễn Ngọc Tấn- Nguyễn Thi thì nhiều người đã biết rất lâu trước khi Nhà văn được nhận Giải thưởng HỒ CHÍ MINH về văn học- Nghệ thuật (năm 2000 ) và được Tuyên dương Anh hùng lực lượng vũ trang (2011). Năm 2018 kỷ niệm 50 năm cuộc Tổng tấn công  Mậu thân lịch sử. Đợt 1 mở đầu vào đêm giao thừa sang năm Mậu thân, và đợt 2 vào tháng 5 cùng năm. Nhà văn Nguyễn Thi tham gia Tổng tấn công đợt 2, khi đi theo một đơn vị đánh phản kích ở ngoại vi Thành phố. Cho đến nay, sau nhiều nguồn tin và cả tư liệu được viết thành văn, ngày hy sinh, trường hợp hy sinh, vị trí nơi nhà văn mất vẫn chưa được xác định chính xác. Mấy năm gần đây, theo lời người dân mách báo, gia đình và bạn bè đi xác minh và khai quật nhưng đều không có kết quả. Ngày hy sinh được báo tử là 9-5. Nhưng trên ngôi mộ gió trong nghĩa trang Liệt sĩ Thành phố, đặt nằm cạnh Nhà thơ Anh hùng Ca Lê Hiến- Lê Anh Xuân, cả hai đều được ghi cùng một ngày mất 23-5-1968. Ngày ấy, hy sinh ở cái lu bên cạnh Lê Anh Xuân ở Long An, còn có một người bạn học cùng Khóa 5  Khoa ngữ Văn ĐH Tổng hợp Hà Nội của chúng  tôi, cùng đi B một lần với Lê Anh Xuân, nhưng hình như chưa viết được gì nhiều là Nguyễn Hồng Tân. Khóa 5 ấy của chúng tôi, còn có một Nhà văn – Liệt sĩ được Tuyên dương Anh hùng là Trần Tiến – Chu Cẩm Phong (mất 1-5-1971). Cả 3 người trẻ tuổi và tài hoa  ấy đều hy sinh trước tuổi 30, khi vừa chớm biết hương vị  ái tình thời đạn bom ác liệt. Nhưng, hy sinh ở tuổi 40, hai lần lập gia đình, Nguyễn Thi cũng để lại cho  người thân những niềm đau không dễ nói nên lời. Kỷ niệm 30 năm mất của  Nhà văn ở Hà Nội, do Hội Nhà văn VN tổ chức, tôi được đọc báo cáo chính: Nguyến Ngọc Tấn – Nguyễn Thi: Một gương mặt đẹp trong văn học VN hiện đại.  Cũng là một tình cờ may mắn, lần này kỷ niệm 50 năm , lại ở TP HCM, nơi Nhà văn hy sinh, tôi lại được một dịp nữa được nói thêm về cuộc đời và tác phầm của Ông.

       Là một người nhiều năm tìm hiểu tài liệu về Nguyễn Thi, sưu tầm, biên soạn và giới thiệu Toàn tập Nguyễn Ngọc Tấn – Nguyễn Thi  (NXB Văn học xuất bản lần đầu 1996, tái bản có bổ sung 2013  gồm 4 tập  2180 trang), mỗi lần đọc lại, tôi lại phát hiện ra những khía cạnh mới mẻ trong cuộc đời cũng như trang viết của Ông, người mà còn sống, năm nay bước vào tuổi 90 (15-5-1928- ? -5-1968).

 

           MỘT SỐ PHẬN MANG ĐẬM DẤU ẤN MỘT GIAI ĐOẠN LỊCH SỬ

          Nhà văn Nguyễn Thi có một tiểu sử thật…như bịa. Bởi lẻ nó bao gồm hầu hết những tình tiết tiêu biểu mà cuộc sống cũng như văn chương xưa nay thường sử dụng để tạo nên lý lịch một nhân vật có cuộc đời bất hạnh, đa đoan, trãi nhiều thăng trầm mà vẫn lập được sự nghiệp hiển hách. Hơn thế, ở Ông, những tình tiết đó xuất hiện với màu sắc đậm nhất, trong cấp độ cực đoan nhất. Hiếm, hậu thế chắc sẽ hiếm, mà cả đương thời cũng khó có nhà văn nào  có một tiểu sử hội tụ nhiều đến thế những tình huống được coi là  điển hình của một kiếp người trong thời kỳ đất nước có những chuyển động vĩ đại: Từ một  nước nô lệ vùng lên giành Độc lập, và chấp nhận cái giá xương máu rất cao phải trả , tiến hành mấy cuộc kháng chiến để có một quốc gia Việt Nam thống nhất. Không mấy đất nước như chúng ta, những ngày kỷ niệm lớn đều là ngày giỗ trong nhiều gia đình: Rất nhiều người hy sinh mới có chiến thắng, và đến lượt kỷ niệm, để lập thành tích chào mừng, lại phải đổi bằng những hy sinh mới. Bây giờ, thì chúng ta biết thêm, phần lớn những kẻ bị chúng ta tiêu diệt, để lập thành tích, để có chiến thắng, cũng là người có cùng Quốc tịch VN. Nhiều khi những người ở hai phía lại cùng ngồi trên bàn thờ một gia đình. Vì thế, không mấy Quốc gia như VN ta truyền đời tôn thờ một Tổ Vua Hùng, huyền thuyết một Mẹ Âu Cơ, thời hiện đại tôn kính Cha già Dân tộc. Bởi đó là những nguồn cội chung ở một tầm cao về thời gian lịch sử để giúp hóa giải những phân chia, tranh chấp, bất đồng thời nào cũng có. Những năm qua, trên tầm nhìn xa rộng đó, trên nền tảng nhân đạo, ngay cả khi chưa bình thường hóa quan hệ ngoại giao, ta vẫn giúp phía Mỹ đi tìm hài cốt các binh sĩ Mỹ đã chết ở chiến trường VN. Về phía chúng ta, việc quy tập hài cốt Liệt sĩ và xác định tên tuổi của họ đã và sẽ còn là một nghĩa vụ thiêng liêng. Nhưng còn đó hàng triệu gia đình từng có người thân là binh sĩ phía bên kia chết trận. Liệu có cách nào để không đào sâu và mở rộng dãi phân cách hai bên cho cả người sống và người đã chết. Làm sao để lớp trẻ hôm nay và ngày mai, thoát được nỗi đau do gánh nặng quá khứ phân chia, khi tìm về nguồn cội, trong đó có mồ mả Tổ tiên, cha ông? Văn chương ta nói nhiều về niềm vui của bên chiến thắng, người chiến thắng mà có lẻ còn ít thấy niềm đau của người Việt Nam ta qua nhiều thăng trầm của lịch sử. Niềm hạnh phúc và nỗi đau sâu thẳm của các bậc sinh thành thuở đất nước có chiến tranh, và chia cắt, sự phân ly tới tận mỗi gia đình, con cái lớn lên và hoạt động ngoài tầm với  của cha mẹ. Cuộc đời nhà văn Nguyễn Ngọc Tấn- Nguyễn Thi thêm một lần gợi cho chúng ta suy nghĩ đó.

   Nguyễn Hoàng Ca (tên khai sinh) là kết quả mối tình của một chiến sĩ cách mạng với một người trẻ tuổi tài sắc cùng hoạt động. Thân sinh là Ông Nguyễn Bội Quỳnh lúc này đã có gia đình. Họ tới với nhau lúc bà Thành Thị Du mới 17 tuổi. Hai năm sau, họ có người con trai đầu. Năm 1930, sau cao trào Xô viết Nghệ Tĩnh, để đàn áp sự phản kháng, Thực dân Pháp bắt bớ hàng loạt người yêu nước. Nguyễn Hoàng Ca đã phải theo mẹ vào tù đến 6 tháng. Khi ra tù, để tiếp tục hoạt động và mưu sinh, bà phải gửi con cho nhiều cửa thân sơ. Cùng trong cảnh đói nghèo của dân một nước nô lệ, lại không phải ai cũng một lòng ủng hộ những người cách mạng, miếng cơm bố thí cho kẻ khó cõng theo nhiều lời ong tiếng ve, chuyện vợ nọ, con kia, nuôi lớn cậu bé Nguyễn Hoàng Ca trong tâm thế u ám. Năm lên 9, cha mất vì bệnh lao, mẹ vừa tần tảo kiếm sống để hoạt động, phải tiếp tục gửi để con có thể đi học. Ngày mẹ đi bước nữa thành đại tang thứ hai trong đời. Học hành dở dang, nhưng nhờ chút năng khiếu hát ca, Anh sớm tham gia các Ban hát Đồng ấu để tự nuôi sống. Năm 1943,15 tuổi, nhập trong dòng người tìm chân trời hy vọng, Anh lên tàu vào  Sài Gòn. Nơi Anh tá túc là nhà người anh cùng cha đã vào lập nghiệp từ trước. Bây giờ mới thực sự bắt đầu những ngày nhọc nhằn kiếm sống khi đã biết thế nào là tủi nhục của một người dân mất nước. Nhưng nhờ môi trường cởi mở của Sài Gòn lúc ấy, Anh đã có ý thức tranh thủ thời gian có thể để đi học: Học văn hóa cơ bản, học vẽ, học nhạc và say mê đọc sách.  Kiến thức hổ lốn, hiển nhiên, nhưng dù sao cũng là những tri thức cần thiết cho một thanh niên khi vào đời.

       Cách mạng Tháng 8 -1945, khi anh vừa 17 tuổi. Giữa Sài Gòn nhốn nháo ngày đầu cách mạng, nơi xuất hiện rất nhiều băng nhóm với khuynh hướng chính trị và tôn giáo khác nhau, tổ chức nào cũng ra sức xây dựng và tập họp lực lượng, may mắn là Nguyễn Ngọc Tấn đã sớm gặp được đoàn thể cách mạng, rồi ngay khi kháng chiến toàn quốc bùng nổ, Anh đã thành anh bộ đội, và đi qua suốt 9 năm liên tục ở các đơn vị chiến đấu. Chút năng khiếu văn nghệ: ca hát, nhảy múa, viết, vẽ đã biến Anh thành một cán bộ chính trị, làm công tác tuyên huấn. Các bài thơ đầu đời tập họp trong tập Hương đồng nội được các chiến sĩ truyền đọc, và được nhận Giải thưởng Văn nghệ Cửu Long năm 1950- 1951 (? ). Năm 1953, trước khi vào một  trận đánh mới, đơn vị được đón Đoàn nghệ thuật. Là cán bộ tuyên văn, Anh có tiết mục biểu diễn giao lưu. Khi Anh ca, có một nữ nghệ sĩ trong Đoàn đệm Phong cầm. Họ quen và gắn bó với nhau từ đó. Chị là Bình Trang, sinh viên Sài Gòn, từng tham gia phong trào biểu tình Trần Văn Ơn, bị truy bắt, phải thoát ly ra vùng kháng chiến và tham gia trong Đoàn Văn Công. Trang Nhật ký ngày 20/12/1953 ghi:”Em xuống đây công tác 3 ngày, 3 đêm. Đem cả lòng mình, đem cả nước da xanh yếu ớt mới trong Quân y ra của mình mà phục vụ toàn tâm, toàn ý cho Tiểu đoàn. Mỗi đêm, em đờn 5 tiếng đồng hồ liên tiếp. Anh vui về tinh thần phục vụ đầy đủ của em, anh cũng lo cho cái sức khỏe non kém ấy ngã xuống một lúc nào. Anh theo dõi sức khỏe của em từng lúc. Cả 3 đêm em không ngủ, để đờn và nói chuyện với anh. (tr 470-471 T 2 ). Sau một năm quen biết, họ chính thức thành vợ chồng vào đúng dịp tết bước sang 1954. Một cuộc sống mới bắt đầu. Dưới đôi cánh lãng mạn của tình yêu là những lo nghĩ thiết thực cho tương lại: Dựng chòi làm nhà ở, phát rẫy trồng mía để lo tự túc. Vất vả cuốc đất, phát rẫy, tìm mua ngọn mía, chuyên chở về  từ xa. Nhưng lần đầu lo một việc thiết thực, mới thấy không có gì dễ dàng: Rất nhiều công sức và tâm huyết  và cả hy vọng hai vợ chồng trẻ đã gửi vào cái rẫy trồng mía mà họ gọi là ”cái rẫy trăng mật” bên triền sông Tha La (Tây Ninh) ấy , “ Cái rẫy ấy là công trình đầu tiên của vợ chồng mình lo cho gia đình, đầu tiên của cá nhân anh và em từ nhỏ tới giờ, nào ai đã biết tự túc là cái gì đâu…cái kết quả ngày nay không thể hình dung thấy trước được “  Tr 497- T 2 ).  Mùa thu hoạch mà họ chuẩn bị để đón đứa con đầu lòng đã không thành. Hai người mãi theo đơn vị đi các chiến dịch, rồi ngày kết thúc cuộc kháng chiến chống Pháp  đã đến. Sau hiệp định Genever, Anh theo đơn vị tập kết ra Bắc. Chị được Tổ chức bố trí ở lại tiếp tục hoạt động. Ngày 29/10/1954, Anh xuống tàu đi tập kết, không hay, trở về thành phố, chị sinh con gái, đặt cái tên mà hai người đã chọn trước: Nguyễn Trang Thu. Cuộc chia tay ngỡ là chỉ 2 năm đã thành mãi mãi.

       Trở lại miền Bắc, anh đã sớm tìm lại được người mẹ mà suốt tuổi thơ, trong nhiều hoàn cảnh, tình cảm mẹ con có rất nhiều trắc trở. Đầu kháng chiến, Bà đi tản cư, một mình nuôi mấy đứa con khốn khó. Năm 1951, Bà trở về Thành hoạt động bí mật. Khi đã hồi phục sức khỏe và cuộc sống khấm khá lên, thì nghe tin Anh đã chết. Mợ chết ngất đi khóc đêm khóc ngày như người mất hồn đến mấy tháng. Ngày gặp lại, anh ở tuổi 27, Bà mới 46, đang công tác ở Cơ quan Hội Phụ nữ tỉnh Nam Định. Đó là một người phụ nữ tài sắc, có cuộc đời lận đận, mà vẫn gắn bó với công  tác cách mạng. Những dịp gặp ngắn ngủi, Bà săn sóc con để bù lại những ngày ấu thơ để con bơ vơ. Bà đọc cho Anh nghe bao nhiêu bài thơ bà làm cho Anh trong những năm xa cách:

     Mợ ủ bên lòng một bóng con/ Kỷ niệm sương sa giữa lối mòn/

     Mợ tưởng những ngày ngây dại cũ /Vơi đầy trùng điệp nước cùng non.

     Mợ nghĩ sau này sống bơ vơ / Vắng con đời mợ hóa tiên sơ

    Mợ sẽ nhủ thầm trong khói bụi /Con là con Mợ lúc còn thơ.

        Ngay trong ngày gặp lại , biết con đã có vợ, có con ở Phương Nam, bà mẹ vui mừng nhưng  đã linh cảm thấy một ngày mai xa cách. Cuộc kháng chiến dữ dội để thống nhất đất nước đã làm cho một gia đình vừa đoàn tụ một lần nữa tan tác và lần này là mãi mãi.

           Trở về Sài Gòn hoạt động và nuôi con, chị Bình Trang nằm trong tầm truy kích ráo riết những người kháng chiến cũ. Để hiểu đúng tính ác liệt của thời kỳ này- mà ngày nay nhiều người hình như cố tình quên- xin dẫn mấy con số: Theo Đồng chí Mai Chí Thọ, khi Tập kết, 6 tỉnh miền Đông Nam Bộ có 21.000 Đảng viên, tới Đồng khởi, chỉ còn 900 người, với 4 Chi bộ, số còn lại hoạt động đơn tuyến (Báo Nhân Dân ngày 29-4-1998).  Bảo tàng Đồng khởi tỉnh Bến Tre ghi rõ, từ 1954-1959, tại tỉnh này, 2519 người bị giết, 17.000 bị tù, hàng vạn người bị bắt bớ, đánh đập, tra khảo. Trong những năm trốn tránh để tiếp tục hoạt động, nhiều hoàn cảnh ngặt nghèo, phải đóng giả vợ chồng để hợp thức hóa sinh hoạt, chị đã có thêm một người con. Là một người sống không cởi mở và khắc kỷ, nhận tin này, khi đã được điều về Tạp chí Văn Nghệ Quân đội, Anh đã bị sốc dữ dội. Bóng dáng những ngày này được thể hiện trong truyện ngắn Im lặng in ở Tạp chí số 12 năm 1957, năm đầu, Tạp chí được phát hành rộng rãi. Chỉ khác là dù la hét, dù nhiều ngày đêm phải lấy khăn ướt trùm đầu, nhưng Anh chưa phải vào Bệnh  viện Tâm thần như nhân vật trong truyện khi biết người yêu đã vì một lời hẹn với mình mà chọn cái chết để giữ tròn trinh tiết. Mấy năm sau, như một sự trả đũa, Anh đã xây dựng gia đình mới với một cô thôn nữ phải khai thêm để đủ tuổi kết hôn. Ngày chị Bình Trang được Tổ chức bố trí ra Bắc, do trục trặc về giao liên, phải chờ ở Cam-pu-chia đến nữa năm, Anh đang nằm Viện vì bị ho ra máu, cũng là lý do để không thể đi đón chị. Tổ chức đưa chị đi học ở nước ngoài, rồi có một người chồng mới nhưng họ không ở với nhau được bao lâu.

       Sau Đồng khởi 1960, Khu Giải phóng ở Miền Nam được mở rộng. Trong các lực lương chi viện cho Miền Nam, đã tính tới lực lượng báo chí, văn nghệ. Các văn nghệ sĩ quê ở Miền Nam là lựa chọn buổi đầu. Mấy năm trở lại quê nhà, Nguyễn Ngọc Tấn đã có những bước trưởng thành vượt bậc. Từ một cán bộ văn nghệ phong trào, có mấy bài thơ đăng báo, Anh được điều về Tạp chí Văn nghệ Quân đội, nơi tập họp những cây bút trẻ trong toàn quân sau kháng chiến chống Pháp. Cơ sở văn hóa cơ bản thấp, nên Anh đã phải  tự học rất nhiều để vươn lên theo kịp bạn bè. Và trong cuộc thi đua này, Anh đã sớm vươn lên trong tốp hàng đầu các cây viết trong quân đội. Hai tập truyện ngắn  Trăng sáng (1960), Đôi bạn (1962 ), tập họp các truyện đã đăng trên các báo trong thời gian đó được đánh giá cao.

      Về mặt gia đình, Anh đã gặp lại người mẹ mà anh hết lòng yêu thương; mấy người em thất lạc đã tìm được về, có một người vợ mới, và cậu con trai. Nhưng khi biết có chủ trương đưa các nhà văn quê  Miền Nam trở lại chiến trường, Nguyễn Ngọc Tấn, lúc đó sức khỏe không tốt, nhưng vẫn quyết xin đi bằng được. Tiếp sau những Nguyễn Chí Trung, Thu Bồn, Thanh Giang, Võ Trần Nhã, Nguyễn Quang Sáng,…đi từ 1960, năm 1962, Anh cùng Nguyên Ngọc trở lại Miền Nam. Nguyên Ngọc về Khu V, Nguyễn Ngọc Tấn đi thẳng vào Nam Bộ. Chuyến đi dài 6 tháng. Mấy năm đầu, Nhà văn phải tập trung cho công việc làm báo ở tờ báo Quân Giải phóng, rồi sau này là Tạp chí Văn nghệ Quân Giải phóng. Đi lấy tin, viết bài, chạy  giặc càn, tăng gia tự túc, đi nắm tình hình, dựng căn cứ, chăm lo dạy các lớp bồi dưỡng lớp trẻ các đơn vị về nghiệp vụ báo chí, viết văn. Phải đến năm 1965, bạn đọc mới được đọc các bài viết ký tên Nguyễn Thi, tên người con trai khi Anh đi B mới có 6 tháng tuổi.Những Truyện và Ký viết chủ yếu trong 2 năm 1966-1967 đã làm nên một tên tuổi Nguyễn Thi gắn với giai đoạn miền Nam đang thừa thắng xông lên, các tấm gương Anh hùng, Dũng sĩ, qua ngòi bút linh hoạt và lạc quan của nhà văn đã thành những biểu tượng đẹp của một thời kỳ lịch sử sôi động. Khi gặp gỡ, hỏi chuyện những người cùng thời, cùng sống với nhà văn, điều làm tôi cảm phục nhất, là những tác phẩm trong trẻo, đầy lạc quan ấy được viết trong những ngày không chỉ gian khổ, thiếu thốn, mà ngay trong môi trường sống, cũng không hoàn toàn dễ chịu. Không khí thời chiến, cảnh giác và nghi kỵ thường trực. Nhà văn Trang Thế Hy, người từng sống cạnh tác giả Chiếc guốc xinh xinh, nhà văn Thủy Thủ, người ra với Mặt trận sau một cuộc đảo chính, đã phải tự bắn vào đầu mình,  từng viết một câu đau đớn: Các anh hay nói đến nhân đạo và khoan dung nhưng thực tế  đã không đủ niềm tin vào một con người.. Nguyễn Thi cũng có thời gian thu mình lại, và có lần định tự bắn vào đầu. Ngày Anh đi B cấp bậc Đại úy. Sau 7 năm ở chiến trường, với những tác phẩm được cả nước nức lòng khen ngợi, nay trên bia mộ, vẫn ghi đúng cấp bậc ngày ra đi. Hơn thế, đọc các tác phẩm còn viết dở, được lần lượt công bố sau khi tác giả hy sinh: Tiểu thuyết mới ba chương được VNQĐ dặt tên Ở xã Trung Nghĩa, các truyện ký Ước mơ của đất, Sen trong đồng, Cô gái đất Ba Dừa, và các ghi chép trong mầy lần đi về Mỹ Tho, Bến Tre được gửi ra Bắc sau khi tác giả hy sinh, tôi đã mất hơn 2 năm lần mò đọc, sắp xếp để in trong tập Năm tháng chưa xa (Nxb Văn nghệ Giải phóng -1986) người đọc càng cảm thấy tầm vóc  của một nhà văn lớn đang hiện rõ.  Điều nhà văn đào sâu và khám phá liên tục trong các tác phẩm đó là sức mạnh tinh thần của NGƯỜI DÂN. Đằng sau những biểu hiện thường ngày rối rắm giữa xấu tốt, trung thành và phản bội, ở vào thời thế tanh bành, khi kẻ địch thống trị truy đuổi người kháng chiến không tấc sắt trong tay, thì chính nhân dân đã không tiếc xương máu để tham gia đấu tranh bảo vệ và che chở người của Cách mạng, mặc dầu nhiều, khá nhiều người trong họ đã đầu hàng, chiêu hồi, đầu thú, quay lại chỉ điểm, bắt bớ, tra tấn, dụ dỗ những quần chúng yêu nước. Có người khai ra cả nghìn người. Chính nhân dân đã đem sinh mạng mình làm lá chắn bảo vệ Cách mạng và làm nên sức mạnh của Cách mạng. Niềm đau lớn nhât chính là trong những hoàn cảnh ngặt nghèo nhất của cuộc chiến dai dẳng, những tình cảm, đạo lý truyền thống đã  làm nên một quốc gia, một dân tộc như tình làng, nghĩa xóm, tình gia đình bị tàn phá một cách dữ dội, quan hệ giữa người với người, không chỉ ở hai chiến tuyến, cũng bị làm méo mó, lệch lạc. Một triết lý sơ đẳng: Nhiễu điều phủ lấy giá gương/ Người trong một nước phải thương nhau cùng, trong nhiều hoàn cảnh đã thành một điều không được chấp nhận, nếu không muốn mang tội mất lập trường. Cuộc chiến xảy ra ngay trên quê hương, trong một thời gian quá dài, liên lạc bị chia cắt, hoàn cảnh sống liên tục biến động, đã làm bao nhiêu sinh mạng phải chết, bao nhiêu con người tính cách bị biến dạng  theo những chiều hướng khác nhau, bao nhiêu gia đình tan nát, mà những gia đình có gặp lại cũng không dễ dàng đoàn tụ.

    Bên cạnh những truyện ký mang tính thời sự, phục vụ kịp thời, tạc tượng những người Anh hùng, Dũng sĩ tiêu biểu: Chị Út Tịch (Người Mẹ cầm súng, Khi Mẹ vắng nhà), Phạm Văn Cội, Tô Văn Đực (Những sự tích ở đất Thép) Nguyễn Thị Hạnh (Ước mơ của đất )…, nhà văn đã cắm những lát cày sắc vào lòng  sâu của hiện thực cuộc sống nông thôn Nam Bộ những ngày đen tối để tìm nguồn gốc sức mạnh của nhân dân vùng lên theo lời kêu gọi Đồng khởi của Đảng, dù nhiều nơi không  còn Tổ chức Đảng cơ sở.

      Cái chết trong tư thế người chiến sĩ trực tiếp cầm súng, đã làm cho các tác phẩm quý báu đó mãi mãi nằm lại ở dạng những phác thảo dở dang.

      Trong Sổ tay ghi chép của mình, nhà văn từng viết như một lời Di chúc: “Nhân dân đối xử tốt, đầm ấm tới mức mà anh nghĩ mình có chết cũng không có gì đáng ngại. Một cử chỉ tốt làm con người vui, sung sướng và, bỗng nhiên cảm thấy mình cao lớn hơn, can đảm hơn. Biết lấy gì đền đáp xương máu nhân dân đã hy sinh không tính toán để bảo vệ cách mạng những năm tháng này? Mai ngày đất nước thống nhất, cách tưởng niệm xứng đáng nhất chưa phải là xây những tượng đài to tát, mà phải là tạo dựng đời sống no đủ, hạnh phúc cho những con người còn sống.” (Tr 22  T4).

       Hơn 40 năm qua, cái Mai ngày mà Nhà văn tin chắc sẽ đến đã thành hiện thực. Chúng ta đã có một đất nước Thống nhất trong Độc lập, nhưng di nguyện của người hy sinh vẫn còn là mục tiêu phải phấn đấu. Trong trang nhật ký  ngày 30-12-1952, đêm cuối năm, nhìn lại đời mình, Anh có ghi:” Đời tôi, từ lòng thương Mẹ, trình độ học thức, ngày  vui sướng, cuộc tình duyên, cho tới sự nghiệp cách mạng, và tương lai ngày mai về văn nghệ, tất cả đều toàn là lận đận và lỡ dở. Tôi biết và hiểu rõ lắm.” Thật đau lòng là cảm nhận không mấy sáng sủa từ tuổi 20 ấy đã hầu như  thành sự thật trong đời riêng của Nhà văn. Hơn 10 năm sau ngày Thống nhất, nhở đồng đội của con tổ chức, Bà mẹ, người ngày nào mới gặp lại con đã cảm nhận, sau này sẽ sống  bơ vơ, Mợ sẽ nhủ thầm trong khói bụi/ Con là con mợ lúc còn thơ, đã vào tìm thăm nơi con bà hy sinh. Nhưng chiếc xích lô đưa bà dạo mấy phố, mà bó hoa trên tay dù héo cũng không biết cắm ở nơi nào. Hai người phụ nữ gắn với đời Ông cũng lận đận và dở dang. Dù đi bước nữa nhưng không ai yên ổn. Người sĩ quan gá nghĩa với Bà Xuân đã tự bắn vào đầu tự tử đúng ngày 30/4/1975 trên cánh đồng Bà Thá -  Sơn Tây. Con gái và con trai cũng có cuộc sống không bình thường. Di họa của cuộc chiến tranh lâu dài in đậm bóng lên cuộc đời của một gia đình gồm toàn những người nghiêm túc, tử tế, hết lòng thương yêu nhau mà lại mang cho nhau rất nhiều đớn đau và mất mát, cho đến nay vẫn không  thể nào hòa hợp được. Mà hầu như cả đất nước ta cũng chưa tìm ra chất keo nhiệm màu để hàn gắn lại những mãnh vỡ quá lớn do mấy cuộc chiến tranh gây ra. Chính nghĩa của cuộc chiến thắng chỉ được khẳng định khi giải được bài toán về sự phát triển ổn định của đất nước, và chăm lo đời sống hạnh phúc cho mọi người dân.

        Là những người viết văn, nhân dịp kỷ niệm này, chúng ta cùng nhau nhìn sâu vào một cuộc đời cụ thể, một văn nghiệp cụ thể để thấy văn chương đã làm được những gì, ta còn thiếu những gì, và phải làm gì để góp vào sự hàn gắn khối Đại đoàn kết Dân tộc, cái cốt lõi quan trọng nhất của một đất nước ĐỘC LẬP, THỐNG NHẤT mà bao nhiêu xương máu hy sinh, bao nhiêu nỗi đau người còn sống phải chịu đựng mới giành được.

      Câu trả lời đó đang chờ các bạn nhà văn đang và sẽ cầm bút hôm nay và ngày mai.

                                                         TP HCM ngày 10-1-2018

                                                                NGÔ THẢO

Tác giả gửi cho viet-studies ngày 9-2-18