Sài Gòn Tiếp Thị 19-9-12

 

Nguyễn Ngọc Tư và “Sông”

 

Trần Hữu Dũng

 

 

 

Câu chuyện (nếu nó là câu chuyện) của quyển tiểu thuyết là chuyến du khảo sông Di của ba  người: Ân (khởi xướng và là nhân vật chính của tác phẩm), Bồi (bỏ cuộc nửa chừng) và Xu.  Họ không biết nhau trước cuộc đi này.  Tác giả giải thích “Có chút nhẹ nhõm khi người ta không mang quá khứ để đến với nhau”.  Cũng có mặt xuyên suốt quyển tiểu thuyết là mẹ của Ân, và Tú, người tình đồng tính của Ân.  Liên hệ giữa Ân và Tú có thể nói là rất “phức tạp” (sẽ rõ ra khi đi sâu vào câu chuyện).   

 

Sách dài 233 trang, chia làm 22 chương.  Mỗi chuơng có thể đứng riêng như một truyện ngắn.  Sông Di, do đó, có thể xem như một mốc xích xuyên qua những truyện ngắn, những mảnh đời tách nhau ấy...  (“Sông Di là dòng sông của những mãnh đời cỏn con”, tr. 60).  Chúng ta sẽ gặp nhiều nhân vật hầu như luôn luôn có mặt trong tác phẩm của Tư: Những người đàn bà ngoại tình, những cô gái ăn sương, những ngừơi đàn ông thô bạo, dữ dằn...  Và hình như tất cả đều nhìn qua con mắt của người con, hay một đứa trẻ. .

 

Khác với đa số truyện ngắn, tản văn từ trước đến nay của Nguyễn Ngọc Tư, Sông không dính líu gì đến sông nước miền Nam. Người đọc nó, bởi thế, sẽ bị bứng ra khỏi cái toạ độ quen thuộc (ít ra là toạ độ của truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư).  Đọc lần đầu tiên, những địa danh quen thuộc pha trộn với những địa danh dọc một sông Di hư cấu có thể làm người đọc ... lơ đảng: không biết mình nên xem đây là một câu chuyện huyễn hoặc hay có thật. Người đọc sẽ ngập ngừng “đầu tư” tình cảm của mình vào nó.  Có thể đây là chủ ý của tác giả, nhưng đó là đòi hỏi ở độc giả quá nhiều.

 

Bằng cách đưa ra những địa danh hư cấu, có lẽ Nguyễn Ngọc Tư không muốn người đọc liên tưởng đến những gì dính líu đến những địa danh có thật.  Cô muốn bứng rễ người đọc để đưa vào  khung cảnh táo bạo của câu chuyện.  Nhiều tác giả đã dùng thủ thuật này (chẳng hạn như Marquez với  Macondo, Faulkner với Yoknapatawpha County), nhưng tôi nghĩ Nguyễn Ngọc Tư đã không tận dụng những tiềm năng mà thủ thuật này tạo cho người viết. Bởi lẽ, ở những tác giả khác thì một địa phương hư cấu được cả một khối cư dân làm nền cho câu chuyện, với cá tính và lịch sử đặc biệt của họ, còn sông Di của Nguyễn Ngọc Tư chỉ là... sông Di (dù cô có cho thêm vài chi tiết hư cấu về lịch sử, nhân chủng của vùng ấy).  Đó là một hư cấu tiêu cực (không muốn độc giả liên tưởng đến địa danh quen thuộc nào khác) hơn là tích cực (với những cái đặc trưng ở nơi ấy).  Nguyễn Ngọc Tư mời chúng ta theo cô đến miền hư cấu ấy của cô, nhưng ta không thấy gì mới lạ ở đó, và tự hỏi: Sao chúng ta không “ở nhà”, một địa danh quen thuộc nào đó?  Với những địa danh hư cấu, trong trường hợp này, tôi nghĩ Nguyễn Ngọc Tư đã gây cho độc giả một sự “rối trí” không cần thiết. Vì sông Di không đem lại gì cho câu chuyện, những đoạn về địa lý của sông ấy (gần sông nào, núi nào, thành phố nào...) có hơi thừa, không có một tác dụng gì ở người đọc.

 

Dùng hình tượng một con sông để “xỏ xâu” các câu chuyện lại với nhau không phải là một thủ thuật mới.  Nhiều nhà văn (V.S. Naipaul, Joseph Conrad....) sử dụng rất công hiệu kỹ thuật này trong không ít tác phẩm kinh điển.  Tuy nhiên, một người đọc khó tính (hay kỳ vọng nhiều hơn ở Nguyễn Ngọc Tư) có thể tiếc rằng cô đã không tận dụng sự súc tích mà hình tượng ấy có thể cung cấp cho cô, dù cô đã khai thác khá nhiều.

 

Tôi nghĩ (hay đã đọc đâu đó) một tác phẩm nghệ thuật (từ hội hoạ, điêu khắc, âm nhạc, đến văn chương...) đều là một sự hội ứng, một sự giao thoa, giữa người sáng tác và người thưởng ngoạn.  Chính người thưởng ngoạn đem đến cho tác phẩm những trải nghiệm của đời mình khi đọc, khi xem,  khi nghe...., Một tác phẩm thành công là một tác phẩm mà người sáng tác đánh thức tâm thức, bắt đúng tần số, của đông đảo người thưởng ngoạn.  Với một bối cảnh địa dư “bán hư cấu”, Nguyễn Ngọc Tư giao cho độc giả một nhiệm vụ nặng nề là dùng chính quá khứ, trải nghiệm của mình để “giải mã” câu chuyện mà cô kể.  Nhiều người (ở một lứa tuổi chưa quá già, tôi đoán) sẽ thích thú tìm thấy ở đây một sự đồng điệu bất ngờ, song tôi e rằng không ít độc giả sẽ thấy Sông quá xa lạ với họ. Tác phẩm này, tôi ngại, sẽ “kén”độc giả là vì thế.

 

Tuy là tiểu thuyết đầu tay nhưng ai cũng sẽ thấy rằng đây không phải là tác phẩm của một ngòi bút mới vào nghề.  Về nhiều mặt, có một sự tiến bộ rõ rệt về kỹ thuật viết, và hiển nhiên là (như hầu hết tác phẩm của Nguyễn Ngọc Tư) một sự cẩn trọng tột bực trong văn phong, tỉ mỉ trong chữ nghĩa, và những nhận xét cực kỳ tinh tế về những sinh hoạt đời thường.  Có những câu thật hay (“Ham muốn tắt đi rất nhanh, nhưng rạo rực như cái đuôi. Quét lứơt thước trong tâm tưởng”, tr. 23). Thậm chí, có nhiều đoạn đẹp đến nỗi người đọc có thể thất vọng là câu chuyện chưa xứng tầm kỹ thuật của cô. “Đặc sản Nguyễn Ngọc Tư” vẫn còn đó: Chỉ cần đọc năm ba câu trong cuốn này thì thấy ngay dấu ấn của Nguyễn Ngọc Tư.

 

Đây là một cuốn sách đòi hỏi sự kiên nhẫn ở người đọc (ngay đối với người điểm sách này, phải đọc nhiều lần).  Nó không phải là một cuốn sách “mì ăn liền”, viết vội để kiếm tiền.  Đọc từng câu, từng đoạn, người ta thấy nỗ lực của Nguyễn Ngọc Tư (thậm chí, nhiều khi có cảm tưởng là Tư nỗ lực thái quá).  Nó là một tác phẩm văn học của một ngòi bút cẩn trọng, còn tương đối trẻ nhưng rất dày tuổi nghề, và còn muốn kiếm tìm, thử nghiệm... Văn Tư vẫn rất hay (có thể là hay nhất  từ trước đến nay).  Đối với những người cho rằng, từ sau Cánh Đồng Bất Tận, Nguyễn Ngọc Tư ít có tác phẩm nào nổi bật (không phải vì chất lượng của những tác phẩm sau này là kém đi), Sông sẽ tái khẳng định vị thế của Nguyễn Ngọc Tư trong tốp đầu của những nhà văn năng động nhất Việt Nam hiện nay.

 

Dù trên đây có nêu lên vài điểm “tiêu cực” của tác phẩm này, phải nói lại một lần nữa, nhiều lần nữa, rằng Sông là một bứt phá quan trọng và dũng cảm của Nguyễn Ngọc Tư, một ngòi bút có thể là được nhiều độc giả “thương mến” nhất hiện nay.  Là một bứt phá nhưng người đọc vẫn nhận ra đây là của Nguyễn Ngọc Tư.  Chất “đặc sản” của cô vẫn còn đó, dù rằng nó không còn là đặc sản của chỉ miền Nam, mà là đặc sản của một thế hệ nhà văn mới, tìm tòi và thử nghiệm, nhưng không phiêu lưu vô lối, bởi vì đặc sản ấy luôn luôn bám chặt gốc rễ quê huơng của cô. 

 

Rõ ràng là có nhiều tiến hoá trong tác phẩm của Nguyễn Ngọc Tư (mà nhìn lại, thú vị thay, Cánh Đồng Bất Tận có thễ đựơc xem như tác phẩm cuối cùng của giai đoạn đầu của văn nghiệp Nguyễn Ngọc Tư – giai đoạn mà sông nước Cà Mau là đề tài chính của cô (mà tôi đã viết trong “Nguyễn Ngọc Tư – Đặc sản miền nam”).  Từ sau đó, những truyện ngắn, truyện vừa của Nguyễn Ngọc Tư đều chuyển qua một hướng khác, huyễn hoặc hơn (điển hình là Những cây sầu trên đỉnh Puvan), và chính những tạp văn của cô trong thời kỳ này mới là tiếp nối giai đoạn đầu. 

 

Nguyễn Ngọc Tư tìm tòi cái mới lạ và dù phải nói rằng quyển này chưa hẵn là tuyệt đỉnh thành công của cô (và chắc cô là người đầu tiên nhìn nhận như thế), đây là một cố gắng đáng ngưỡng mộ.  Nguyễn Ngọc Tư đang vạch một hướng đi mới, nhưng nếu nhìn ngoái lại thì người đọc vẫn thấy con đường ấy bắt đầu từ hành trình đã qua của một Nguyễn Ngọc Tư mà độc giả từng yêu mến.  Chúng ta hãy cùng đi với cô. 

 

17-9-12