Ngồi buồn nhớ ngoại ta xưa

Tạp văn

Nguyễn Ngọc Tư

Bà ngoại ta, mấy nhà hoạt động xã hội vì sự tiến bộ của phụ nữ, hay giải phóng phụ nữ gì gì đó gặp một lần là khóc chết luôn.

Sơn móng tay hay móng chân, mặc váy hay quần đùi, tóc uốn hay tóc tém, tóc nhuộm, áo hở ngực hay áo bó… tóm lại, sự chưng diện luôn làm bà ngoại ghét cay đắng. Nên hai cô con gái của ngoại suốt thời thiếu nữ chỉ thả tóc đen dài, chết bỏ cũng chỉ bộ bà ba, móng chân duy nhất màu phèn vàng ệch. Lúc già, hai nàng này bắt đầu day qua nhằn tụi nhỏ, “bà ngoại mầy mà còn sống, bả chửi tan nát…”

Nhưng bà ngoại mất rồi, rất thanh thản, bà ngoại còn lựa ngày để chết, vào buổi sáng hôm tiên thường cúng giỗ ông ngoại. Bà ngoại đi trong lúc con gái đang lúi húi hấp bột, xào nhân gói bánh. Hồi còn sống, bà ngoại luôn nói chết làm sao cho bớt bận lòng đám con cháu vốn ít ỏi, bây giờ thì đám giỗ đông vui, có cả cháu ông, cháu bà, bên nội bên ngoại.

Hồi còn sống, bà ngoại hay nói về ngày ngoại chết, nói thản nhiên, nói rộn rã như đang lên kế hoạch cho buổi… hội nghị nào đó (có phong bì). Ngoại dặn, đừng mời thầy chùa vì sợ con cháu bận theo lạy trong lúc tụng kinh mà không phục vụ khách chu đáo. Dặn phải nấu đồ ăn cho dư nhiều, để cho kết thúc thì bưng cho xóm giềng, cho những người đi giùm đám. Dặn sau này cúng giỗ thì đơn giản thôi, miễn có con cá lóc nướng cũng xong, nhưng cúng trăm mươi ngày thì làm lớn, đây là dịp hậu tạ những người đã giúp đỡ hồi đám ma. Dặn đừng có mời kèn trống làm chi, uổng tiền.

Uổng tiền, đó là câu nói đầu môi của bà ngoại. Nó làm mất lửa bất cứ ai hí hửng đem cho ngoại bộ đồ mới, cái võng mới, hay nón mới. Đồ cũ còn mặc được (dù đã vá mấy chỗ, dù lưng áo đã mỏng te, mấy nẹp áo đã sờn). Võng cũ còn nằm được (dù đã vá chồng mấy lớp). Đội nón cũ đâu có chết (dù đã bung vành, xuống màu, thâm kim). Cái gì ngoại cũng tận dụng đến cùng, bao gạo, hay cái mùng vải đều nằm trong chủ trương “còn rách còn… vá”. Cấp bậc cao hơn là vá… lu, xoong chảo bằng gang cũng vá luôn. Nếu vá mà vẫn không dùng được, lu ngoại sẽ để dành dú chuối, xooang chảo để làm mẻ ung muỗi cho heo. Áo, nếu đã không còn mặc được nữa, ngoại sẽ lắt mấy cái nút bóp trước khi chuyển áo qua làm… nùi giẻ. Mà, nó sống hết đời lau chùi, thì chỉ có nước làm phân cho… trầu.

Vườn trầu của ngoại nổi tiếng cả xóm, nên mấy chiếc ghe hàng bông hay ghé hỏi mua. (Tụi nhỏ đất liền có dịp gặp tụi nhỏ hàng bông, để sau này có đứa lon ton lượm lặt chi tiết để viết… truyện ngắn thương hồ). Ngoại hái trầu đến mức móng tay mòn khuyết một lõm. Những ngày vào đợt hái trầu, ngoại quảy cà vung ra vườn sớm, lúc mặt trời lên cũng là lúc ngoại na cà vung vào, đổ ra bộ ván rồi lấy dây lát bó trầu. Ốp trầu của ngoại cũng nổi tiếng, chặt chẽ mà mềm mại, không làm lá trầu giập, cũng chẳng dễ tuột dây. Để có những cái lá trầu mượt mà, nồng đậm, ngoại ủ một khạp cá phân thúi ùm, ngang qua đó tụi nhỏ nín thở, chạy cái vèo. Chỉ ngoại là tỉnh bơ lấy gàu múc tưới.

Ngoại không sợ gì hết (chết mà còn không sợ thì sợ gì nữa). Ngoại cất cái quán nhỏ dưới bến bán “tót ten” (chữ này của ngoại hay khủng khiếp). Từ quán lên nhà phải qua một con đường mòn hai bên dừa nước bịt khù. Lại còn ráng, ô rô mọc xon xen ra lối đi, ban đêm tối mịt mùng, thấy ớn. Ngoại không ớn, cả con kinh Rạch Rập trước nhà cũng khủng khiếp, nghe kể hồi chiến tranh lâu lâu ngoại bơi xuồng đụng phải một xác chết, lâu lâu, lại thấy có khúc chân người tấp vô ven đó. Ngoại lấy dầm… vít ra. Chuyện nhỏ như… con thỏ.

Những năm tháng sống cạnh đồn Chẹt chắc không dễ dàng gì, khi chồng và con gái đầu lại là… Việt Cộng, bà ngoại trở nên (hay đã sẵn tính) gan lì. Vườn cũ, chim cú trú ngụ hàng bầy, đêm nào chúng cũng thảm thiết cất tiếng kêu, ngoại tỉnh bơ, xách đèn cóc ra chuồng heo coi tụi nó sao lại chộn rộn vậy. Trời ban cho ngoại bàn tay lẹ làng, tướng đi lật đật, con mắt lanh lợi nên bà giỏi giang. Làm bánh hết sẩy, buôn bán cũng có khiếu, mà đan đát cũng tài. Sàng sịa thúng mủng, rổ lớn rổ nhỏ toàn là ngoại đương lấy. Và cái quấn vải mà ngoại quấn trên ngón tay trỏ để vót nan cũng hay mòn. Tuần rồi, về U Minh ghé qua rạch Ổ Ó, quê nhà của bà ngoại, gặp người dì (gọi ngoại bằng dì) đang ngồi đương rổ, bỗng giật mình. Trời, người gì mà giống ngoại ta xưa. Ở đây, bảy mươi năm trước, có một bầy con gái ngồi vót nan trong ánh trời chiều, không biết yêu đương hò hẹn, cứ vậy, chờ người tới rước đi. Để tiếp tục nấu nướng, làm lụng, đương đầu với cuộc đời.

Ngoại cũng có lúc sợ, lý do rất mắc cười, thí dụ, bà lại thảng thốt khi nghe tiếng gà gáy ban trưa, ngoại ngó con gái mình, hơi dè dặt, rầu rỉ, “Gáy kiểu này là xóm có đứa chửa hoang rồi. Tụi bây ráng giữ…”. Ngoại hay thở dài ứ hự, “nhà có con gái như hủ mắm treo đầu giàn…”, đó là lúc hai nàng chưa lấy chồng. Ngoại sợ đổ vỡ cái mà người ta gọi là gia phong. Mà, sợ cũng thừa, hai con gái ngoại cũng chẳng thèm yêu đương hò hẹn, ai thích thì rủ lại nhà chơi với… má tui. Một bữa má đòi theo ông ngoại, bà ngoại nói mầy mà bước đi, tao từ, con gái con đứa con không lo may vá, khéo léo mà bày đặt cầm súng đạn (hay đó chỉ là cái cớ, ngoại sợ rủi một ngày, ngoại phải khóc chồng, khóc cả cho con?). Nhưng má vẫn đi, má biết, sức mấy mà ngoại ngoảnh mặt từ con. Sinh mười lần, chỉ còn hai đứa con gái cu ky, con trai, đứa chết vì bị sài đẹn, đứa chết bởi viêm phổi, bởi ban đen (sốt xuất huyết), bởi những căn bệnh tưởng như vặt vãnh nhưng vì nghèo, thiếu thốn, lạc hậu mà những đứa trẻ tuột khỏi tay bà.

Ở ngoại, luôn có mùi lưu cửu, cũ kỹ. Nó thống nhất từ bộ đồ sờn rách đôi ba chỗ, từ mùi dầu dừa trên tóc, bàn tay đượm hương trầu. Cái tiệm của ngoại cũng cũ mèm những hủ tương da bò, khạp đường mía, mấy cái móc bẻ bằng dây chì treo lùm đùm bọc nhỏ bọc to. Có thể tìm thấy đủ thứ hầm bà lằng món ở đây, từ kim chỉ, nút bóp, đến đá lửa, hột quẹt, ống cuốn (quấn tóc), kiếng lược, đường đậu bột khoai, bột bán, tương chao, nước màu nước mắm xì dầu, kẹo… hiện đại nhất là lon gô của lính Mỹ dùng để đựng tiền.

Lúc sinh ra là đã thấy ngoại bán tiệm rồi, cũng như đã thấy ngoại khó tánh sẵn, ngoài việc dằn mặt vụ chưng diện ra, ngoại còn làm con cháu “rè” dài dài, lên mâm cơm, ăn có chậm, hoặc vừa ăn vừa chỏi tay cạnh hàm, gác cằm lên đầu gối, ngồi chồm hổm, ngoại sẽ hát khúc “ăn kiểu đó là nghèo chết nghen”. Trong chén còn mấy hột cũng phải vét cho sạch, ngoại không thích ăn cơm mà rơi vãi ra ngoài, trái ổi, trái khế cũng đừng hòng cạp nửa bỏ nửa. Bà ngoại hay nói ăn xài huỷ của sau nầy lúc cần, hỏng có mà ăn, lời ngoại như tiên tri vậy, đúng là bây giờ bỗng dưng thèm trái ổi chát ngấm ngày xưa, kiếm được… chết liền. Giũa mấy đứa nhỏ trong nhà tơi tả, ở xóm mà chạng vạng mới chạy tới mua dầu thắp đèn, hay tới bữa cơm mới đi mua gạo, thể nào cũng bị ngoại “tụng” một trận. Ngoại không biết câu “khách hàng là thượng đế”, mà “khách hàng là con cháu tao. Không dạy để sau này thành quen, không chịu lo xa, nước tới chưn nhảy chi nửa mà nhảy”.

Đúng là khó thấy ớn. Có lần, ngoại chèo xuồng ra nhà con gái đầu chơi, thấy thằng rể xách cây đánh con nhỏ cháu mình, ngoại giận lắm, từ ấy, căn nhà đó không còn được đón ngoại ra, dù mười sáu năm nữa đã trôi qua. Rể giờ đã già, nhắc lại, giọng buồn xo.

Nhưng đấy không phải là chân dung đầy đủ nhất của bà ngoại.

Ngoại sợ uổng tiền, ngoại tiện tặn giặt từng cái bọc nilông cũ, súc rửa từng cái chai sành đựng nước mắm, nâng niu từng cọng dây thun nhưng đối đãi với người ngoài, nhất là người nghèo, làm thuê, làm mướn cho nhà mình thì mướt rượt. Ngày mấy bữa cơm, cà phê, thuốc gò đầy đủ, với những người thợ gặt ngoại cũng bưng nước uống ra tận ngoài đồng cho họ. Ngoại không dám may áo mới nhưng đám con cháu được ăn mặc đủ đầy. Về ngoại, chưa kịp khoanh tay thưa bà đã tong tả xúc gạo cái sột, đi rửa khoai đem luộc, lúc thì ngâm đậu nấu chè, xay bột nấu bánh canh. Cái món bánh tổ ăn thừa, ngoại đem phơi khô treo giàn bếp, lâu lâu đem ra chiên với mở heo, từ ngoại ra đi đã không còn thấy nữa.

Không còn thấy nữa bà già nhỏ nhắn, miệng luôn rầy la, chửi chó mắng mèo nhưng trong bụng hiền khô. Bà già đó, nhiều khi cũng cực đoan, cũng phong kiến cũ kỹ, nhưng nền nếp, tử tế.

Nhưng bà vẫn ở bên ta hoài, theo một cách riêng của bà, thí dụ gặp khuôn bánh, ai đó vô tình buột miệng, “bà ngoại hồi đó hay nướng bánh kẹp, bánh bông lan…” Nhờ vậy, câu chuyện này được chắp vá từ những người khác nhau những thời điểm khác nhau. Bởi có đứa cháu của bà ngoại hồi xưa không gần gủi với bà lắm, bởi nó sợ căn buồng kín mít chứa toàn đồ cũ của bà nên chẳng khi nào chịu ngủ chung, bởi nó nghĩ bà thương cháu trai hơn, bằng chứng là bà toàn… rửa đít cho ông anh, bởi bà hay cằn nhằn nó.

Để một ngày nó thấy ngoại trong nó, ra đường gặp mấy đứa nhỏ tóc đỏ tóc vàng, ăn mặc hở hang, nó đổ quạu, cằn nhằn, “con gái gì không nên nết…”.

Rất có thể sẽ có “bà ngoại” phần ba.
 

Trở về trang chủ Nguyễn Ngọc Tư

 

Lên trang này ngày 22-3-07